A. Thế Tổ - Gia Long (1802-1820)
1.Thế Tổ xưng đế hiệu
2. Việc triều chính
3. Binh chế
4. Việc tài chánh
5. Công vụ
6. Pháp luật
7. Việc học hành
8. Việc giao thiệp với nước Tàu
9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La
10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao
11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lang Tây
12. Sự giết hại công thần
13. Xét công việc của vua Thái Tổ
1. Thế Tổ xưng đế hiệu.
Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở
đất Gia Định từ năm mậu tuất (1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà
Tây Sơn, thu phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả
nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng đế hiệu,
đặt quốc hiệu là Việt Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế bây
giờ.
Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho
dân một vụ thuế, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước
cho con 170 cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch
cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ tiên.
Đoạn rồi, ngài
đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở
Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ,
tào Binh, tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm Văn
Đăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành.
Đến tháng bảy
năm nhâm tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về làm lễ
hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai
quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt
thây đi, còn đầu thì đem bỏ giam ở trong ngục tối.
Những bọn văn
thần nhà Tây Sơn như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra
đánh ở trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Thì Nhiệm vì
trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở văn miếu,
Đặng Trần Thường sai người đánh chết.
Vua Thế Tổ định tội, thưởng
công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền Cần Chính để lập thường
triều, đền Thái Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xây thành Kinh Đô
và Hoàng Thành cùng các thành trì ở ngoài các doanh trấn.
Tuy rằng
ngài đã đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đến
năm giáp tí (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ
sang phong vương, và đến năm bính dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế
hiệu ở đền Thái Hòa. Định triều nghi, cứ ngày rằm và ngày mồng một thiết
đại triều; ngày mồng 5, mồng 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.
Lúc
ngài đánh xong Tây Sơn, thì chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy
hoại, việc gì cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong thì ngài chỉnh đốn
pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm dân gian
không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống, nghiêm dụ quan
lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo sự giao hiếu với
nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt Nam lúc bấy giờ
trong ngoài đều được yên trị.
2. Việc Triều Chính.
Ở trong cung,
nhà vua không đặt ngôi hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung
tần. Sau khi vua mất, thì tự quân lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng
Thái Hậu.
Quan lại trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê,
nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng tức là chức tể tướng đời xưa. Mọi
việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả. Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm đầu,
quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùng các thuộc viên như là lang
trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại, v.v.....
Bộ
Lại: coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công
trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm những
sổ các hàng quan lại v.v....
Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ v.v...
Bộ
Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức
học hành thi cử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa,
phong thụy cho các thần nhân v.v.....
Bộ Binh: coi việc thuyên bổ võ
chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp,
kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.
Bộ Hình: coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.
Bộ
Công: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu
bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....
Ngoài
lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các
quan. Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống thuộc
về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng
đầu.
Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàu bè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.
Các
địa phương thì lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4
doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (tức là Ninh bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc
Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam
Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng
Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ Bình Thuận trở vào
gọi là Gia Định Thành, thống cả 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định),
Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà
Tiên. 171
Còn ở quãng giữa nước, thì đặt Thanh Hóa Trấn (gồm cả
Thanh Hóa nội, Thanh Hóa ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, Bình
Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức là Khánh hòa) và Bình Thuận
trấn. Đất kinh kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là
Thừa Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng bình doanh, Quảng Nam doanh.
Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó tổng
trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan lưu trấn hay là quan trấn
thủ, quan cai bạ và quan ký lục để coi việc cai trị trong trấn.
Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để coi việc cai trị.
Những
trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc Thành, thì dùng những
quan cựu thần nhà Lê làm quan cai trị. Còn 6 ngoại trấn ở Bắc Thành, thì
giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.
3. Binh Chế.
Khi
vua Thế Tổ đánh được Tây Sơn rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng
phong và làm đền thờ những người tử trận. Còn những quân lính già nua
thì cho về quê quán. Đặt ra phép giản binh: lệ định các trấn, tự Quảng
Bình vào đến Bình Thuận thì cứ ba tên đinh kén lấy một tên lính; tự Biên
Hòa trở vào thì cứ 5 tên đinh kén lấy một tên lính; tự Hà Tịnh trở ra
đến 5 nội trấn ở Bắc Thành thì cứ 7 tên đinh kén lấy một tên lính. Còn 6
ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Quảng Yên thì cứ 10 tên đinh kén lấy một tên lính.
Ở chỗ Kinh thành
thì đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500
người và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn thì đặt ra lính cơ, lính
mộ. Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa là các binh lính chia ra làm 3
phiên, 2 phiên về quán, còn một phiên ở tại ban luân lưu thay đổi cho
nhau.
Những binh khí thì dùng gươm giáo, mã tấu, và lại có súng lớn
bằng đồng gọi là súng đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu
thương, nghĩa là bắn thì mổ bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba
sở xạ trường để quân lính tập bắn.
Ở các cửa bể đều làm đồn đặt súng để phòng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc đi lại.
Nước
Việt Nam ta có nhiều bể cần phải giữ gìn, bởi vậy vua Thế Tổ lưu tâm về
việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần bể về doanh Quảng Đức và
doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng tại Kinh Thành. Còn ở các hải
khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà vua lại làm một thứ
thuyền lớn ngoài bọc đồng, để đi lại tuần phòng ở miền bể.
4. Việc Tài Chính.
Thuế
đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất
đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng;
tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.
Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu:
Thuế thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Cước mễ 2 bát
5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên 139 , mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền
Cước mễ 2 bát
6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân 6 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu tiền 3 tiền
Cước mễ 1 bát
Lệ
giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như
là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v... thì nhà nước chiếu
theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt hại
tới 4 phần thì khoan giảm cho hai phần thuết; thiệt hại 5 phần thì giảm
cho 3; thiệt hại 6 phần thì giảm cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm cho 5;
thiệt hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt hại 9 phần thì giảm cho 7; thiệt
hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy dân đinh đi làm đường, đào
sông, xây thành v.v... thì cũng được giảm thuế.
139
Tức là phủ Hoài Đức bây giờ. 172
Vụ
thuế: Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định vụ thuế. Từ Quảng Bình
đến Bình Thuận cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng
7 thì hết. Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc thành
mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ thì khởi tự tháng 4 đến tháng 6 thì hết;
mùa đông thì khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11 thì hết.
Đinh bạ: Lệ
định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân,
đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải
khai vào sổ.
Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm,
hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước,
tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải chua cho rõ ràng. Mỗi làng
phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi
một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến; còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh
để một bản lưu chiểu, còn một bản gia trả dân xã lưu thủ.
Cấm bán
ruộng công điền: Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi thì đem công điền
đổi ra tư điền, có nơi thì đem cố bán đi, bởi vậy năm Gia Long thứ hai
(1803) nhà vua lập lệ cấm dân xã không được mua bán công điền công thổ,
chỉ trừ lúc nào xã thôn có công dụng điều gì, thì mới được phép cho điển
cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quán hạn ấy thì phải tội.
Thuế
các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An,
đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân,
và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải
trình quan để cấp cho văn bằng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp
quan, một nửa cho người tìm được.
Năm Gia long thứ tư (1805), định
lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng
niên phải nộp thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh lính.
Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.
Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp.
Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.
Đúc
tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc Thành, để đúc
tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng
bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước.
Mỗi đồng tiền
kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long Thông Bảo", một mặt in chữ
"thất phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.
Giá vàng ở Bắc Thành thì định cứ một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc.
Về sau mở thêm lò đúc tiền ở Gia Định Thành và ở các trấn.
Thước
đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ
"Gia Long cửu niên thu bát nguyệt", một mặt khác 10 chữ "ban hành đạc
điền xích, công bộ đường kính tạo". Chuẩn định lại các thước vuông đo
ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long Cửu
Niên Thu Bát Nguyệt", một mặt khắc 12 chữ "ban hành đạc điền cựu kinh
xích, công bộ đường khâm tạo".
Phép cân: Năm Gia Long thứ 12
(1813), chế tạo ra cân thiên bình, cấp cho các doanh các trấn, để cân
đồng, sắt, chì, thiếc và các sản vật. Còn vàng và bạc thì dùng cân trung
bình.
5. Công Vụ.
Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi.
Đường
Quan Lộ: Đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên
vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang
đường quan lộ: bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000
trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.
Lại từ cửa Nam quan
(thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một
cái nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi.
Cả thảy 98 trạm.
Còn từ Bình Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên thì đi đường thủy.
Sông
ngòi và đê điều: Những sông ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho
việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi
đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc thành phải giữ gìn đê điều
cho cẩn thận: chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải
sửa 173 lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất
mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân.
6. Pháp Luật.
Nguyên khi
trước vẫn theo luật nhà Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đã nhất thống cả nam
bắc, vua Thế Tổ bèn truyền cho đình thần lập ra pháp luật rõ ràng, để
cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi (1811) sai Nguyễn Văn Thành làm tổng
tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời Hồng Đức nhà Lê, mà
tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ, cả thảy 22 quyển, có
398 điều.
Đến năm ất hợi (1815), thì in sách luật ấy phát ra mọi
nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật
của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi.
7. Việc Học Hành.
Thời
bấy giờ nhờ có võ công mới dựng nên cơ nghiệp, cho nên lúc ấy các quan
đầu triều là quan ngũ quân đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành
đều là quan võ cả. Nhưng vua Thế Tổ cũng biết rằng sự trị nước cần phải
có võ có văn, bởi vậy đêm ngày ngày lưu ý về việc học hành thi cử trong
nước.
Ngài lập nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn, thờ đức Khổng
tử, để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh đô, để dạy con
các quan và các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học
hành ra là quan.
Đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ.
Vua
Thế Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ
Thượng Thư là Lê Quang Định kê cứu ở trong các trấn các doanh, tự Lạng
Sơn đến Hà Tiên, xem sơn xuyên hiểm trở, đưòng sá xa gần, sông bể, cầu
quán, chợ búa, phong tục, thổ sản, có những gì làm thành sách "Nhất
Thống Địa Dư Chí" để dâng lên. Đến năm bính dần (1806), bộ sách ấy làm
xong cả thảy được 10 quyển.
Năm tân mùi (1811), ngài sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử.
Thời
bấy giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi khi nhà vua cũng dùng chữ
nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn Văn
Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không rõ ai làm, nhưng thật là một
bài văn chương đại bút. Lại có những chuyện như "Hoa Tiên" của ông
Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của quan Hữu Tham tri bộ Lễ là ông
Nguyễn Du 140 , cũng phát hiện ra thời bấy giờ.
"Truyện Thúy Kiều"
là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân tình thế cố, tả được
cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ cũng
lý thú. Nói theo tiếng đời nay thì "Truyện Thúy Kiều" thật là một tập
văn chương đại trước tác của nước ta vậy.
8. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.
Khi
vua Thế Tổ dứt được nhà Nguyễn Tây Sơn và lấy được đất Bắc Hà rồi, sai
quan thượng thư Binh Bộ là Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu cầu phong
và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, lấy lẽ rằng Nam là An Nam và Việt là
Việt Thường. Nhưng vì đất Nam Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm cả đất
Lưỡng Quảng, cho nên Thanh Triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt
Nam để cho khỏi lầm với tên cũ.
Đến năm giáp tí (1804) Thanh Triều
sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong. Đoạn
rồi, vua sai Lê Bá Phẩm làm chánh sứ đem đồ cống sang tạ và từ đó cứ
chiếu lệ ba năm một lần sang cống.
Đồ cống phẩm là:
Vàng
200 lượng
Bạc
1000 lượng
Lụa và cấp mỗi thứ 100 cây
Sừng tê giác
2 bộ
Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân
9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La.
Nguyên lúc còn Lê Triều thì chúa Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp. Sau vua nước ấy là Nặc Ông Tôn 141
bị
anh em hiếp chế, phải chia quyền ra làm ba, để cho Nặc Ông Vinh làm vua
đầu, mình làm vua thứ hai, em là Nặc Ông Thâm làm vua thứ ba. Được ít
lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn và Nặc Ông Thâm giữ lấy quyền làm
vua một mình.
Lúc bấy giờ Nguyễn Vương còn ở Gia Định mới sai Đỗ
Thanh Nhân sang đánh Nặc Ông Vinh và lập con Nặc Ông Tôn là Nặc Ông Ấn
lên làm vua. Nặc Ông Ấn bấy giờ mới có 8 tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ Văn
Lân ở lại
140
Ông Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh 141
Xem ở chương VI 174 bảo hộ. Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La.
Năm
bính thìn (1796), Nặc Ông Ấn mất, truyền nôi lại cho con là Nặc Ông
Chân. Vua Tiêm La sai sứ sang phong, như thế là vua Chân Lạp phải thần
phục vua Tiêm La.
Đến năm đinh mão (1807) Nặc Ông Chân lại bỏ Tiêm La mà xin về thần phục vua Việt Nam ta, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần.
Đồ cống vật là:
Voi đực cao 5 thước 2 con
Sừng tê giác
2 chiếc
Ngà voi
2 cái
Hột sa nhân
50 cân
Đậu khấu 50 cân
Hoàng lạp 50 cân
Cánh kiến 50 cân
Sơn đen 20 lọ
Nặc
Ông Chân có ba người em tên là Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông
Đôn, muốn tranh quyền của anh, mới sang cầu cứu nước Tiêm La. Tiêm La
bắt Nặc Ông Chân phải chia đất cho các em. Nặc Ông Chân không chịu, quân
Tiêm La bèn sang đánh thành La Bích. Nặc Ông Chân chạy sang Tân Châu,
rồi dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn Gia Định thành bấy giờ là Nguyễn
Văn Nhân mới đem việc ấy tâu về Triều đình.
Năm tân mùi (1811), vua
Thế Tổ cho sứ đưa thư sang trách nước Tiêm La sinh sự. Năm sau, vua Tiêm
La sai sứ sang phúc thư lại rằng: việc ấy là muốn giảng hòa cho anh em
Nặc Ông Chân, chứ không có ý gì cả. Vậy xin để Việt Nam xử trí thế nào,
Tiêm La 142
cũng xin thuận.
Qua năm quý dậu (1813) vua Thế Tổ
sai quan tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt đem hơn 10.000 quân,
hội đồng với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc Ông Chân về nước.
Nước Tiêm La
tuy không dám kháng cự, nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc tầm bon
(Battambang), nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc Ông Chân. Lê Văn
Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm La về điều ấy, quân Tiêm mới rút
về.
142
Tức là Thái Lan ngày nay
Lê Văn Duyệt dâng sớ xin
xây thành Nam Vang (Phnompenh) và thành La-lêm. Khi những thành ấy xây
xong, thì vua Thế Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân ở lại bảo hộ
nước Chân Lạp. Từ đó quyền bảo hộ Chân Lạp lại về nước ta.
10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao.
Năm
quý hợi (1803), nước Hồng Mao (tức là Anh Cát Lợi) sai sứ là ông Robert
đem đồ phương vật sang dân và xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà
Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa
hàng. Sau người Hồng Mao còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng ngày
vẫn một niềm từ chối không chịu.
11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lan Tây.
Đối
với nước Pháp thì vua Thế Tổ có biệt nhỡn hơn, là vì khi ngài còn gian
truân, ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc có đem mấy người sang giúp ngày. Đến
khi xong việc đánh dẹp rồi, còn có Chaigneau, Vannier và Despiau làm
quan tại triều, mà vua Thế Tổ cũng có lòng trọng đãi, cho mỗi người 50
lính hầu, và đến buổi chầu thì không bắt lạy.
Vả trong khi vua
Thế Tổ làm vua ở nước Việt Nam, thì Nã Phá Luân đệ nhất (Napoleon I) làm
vua bên nước Pháp, đang còn phải đánh nhau với các nước, cho nên tàu
Pháp cũng không hay đi lại ở phía Viễn Đông này. Đến khi Nã Phá Luân
thất thế, dòng dõi nhà vua cũ lại trung hưng lên, bấy giờ sự chiến tranh
đã yên, thì mới có tàu sang buôn bán ở phương Á đông. Năm đinh sửu
(1817), có chiếc tàu "La Paix" của hiệu Balguerie, Sarget et Cie chở đồ
hàng sang bán, nhưng mà những đồ hàng ấy, người Việt Nam ta không dùng
được, lại phải chở về. Vua Thế Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu năm
ấy, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cử Đà Nẵng. Quan
thuyền trưởng là De Kergarion bá tước nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII
sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc
nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng
những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không
nói đến nữa.
Năm kỷ mão (1819), có chiếc tàu buôn ba cột tên là
"Rose" và "Le Henri" vào cửa Đà Nẵng. Lần này hàng hóa đem sang bán
được, lại chở chè và lụa về. Năm ấy Chaigneau xin nghỉ ba năm, đem vợ
con xuống tàu "Le Henri" về Pháp.
175
12. Sự giết hại công thần.
Những người công thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại trong khi vua Thế Tổ còn đang trị vì.
Nguyễn
Văn Thành, nguyên là người ở Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Định đã hai ba
đời. Theo vua Thế Tổ từ khi ngài mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu hết
mọi đường khổ sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập được công lớn,
đứng đầu hàng công thần.
Khi vua Thế Tổ ra lấy bắc hà, triệu ông ra
làm tổng trấn, giao cho xếp đặt mọi việc, chỉ có mấy năm mà đất Bắc Hà
được yên trị. Sau về Kinh làm chức trung quân.
Ông có học thức, cho nên triều đình cử làm tổng tài việc làm sách luật và quốc sử.
Nguyễn
Văn Thành có người con tên là Nguyễn Văn Thuyên thi đậu cử nhân, thường
hay làm thơ để giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh
Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, Văn Thuyên
làm bài thơ sai tên Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời vào chơi.
Bài thơ rằng:
Văn đạo Ái châu đa tuấn kiệt
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty
Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác
Thiện tường phương tri Ký bắc kỳ
U cốc hữu hương thiên lý viễn
Cao cương minh phượng cửu thiên tri
Thư hồi nhược đắc sơn trung tể
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky
Dịch nôm là:
Ái châu nghe nói lắm người hay
Ao ước cầu hiền đã bấy nay
Ngọc phác Kinh sơn tài sẵn đó
Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này
Tưởng
bài thơ này chẳng qua là lời lẽ của người thiếu niên nói ngông mà thôi,
không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi xui tên Hiệu
đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn ghét Nguyễn Văn Thành, nay
thấy bài thơ này, nắm lấy đem vào tâu vua, vua sai bắt Nguyễn Văn Thuyên
đem bỏ ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ tội ông Thành. Một
hôm bãi triều rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà kêu khóc rằng:
"Thần theo Bệ Hạ từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay không có tội gì mà bị
người ta cấu xé, Bệ Hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn để người ta giết thần mà
không cứu?". Vua Thế Tổ giật áo ra đi vào cung, rồi từ đó cấm không co
ông Thành vào chầu nữa, và sai Lê Văn Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành ra
tra hỏi, bắt phải nhận tội. Nguyễn Văn Thành sợ tội, uống thuốc độc mà
chết, còn Nguyễn Thuyên thì phải chém.
Đặng Trần Thường người ở
Chương Đức (tức là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông bây giờ) có tài văn
học, trốn Tây Sơn vào Gia Định theo giúp vua Thế Tổ làm đến Binh Bộ
Thượng Thư. Sau vì làm gian sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc là tướng
nhà Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình làm án phải tội chém. Nhưng rồi
lại được tha. Đặng Trần Thường vốn có hiềm với Lê Chất, cho nên Lê Chất
mới bới những việc như là khi ra coi tào binh ở Bắc Thành, có chiếm giữ
đầm ao và ẩn lậu đinh điền, v.v.... Lại bị bắt bỏ ngục và xử phải tội
giảo.
Tương truyền rằng Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài "Hàn Vương Tôn Phú" bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời Hán.
13. Xét công việc của vua Thế Tổ.
Vua
Thể tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống
nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã
lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của
những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến
cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên
không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn
hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một
nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.
Công nghiệp
của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có
một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công
thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công
với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua
Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ
công danh về đời áp chế ngày xưa.
Vua Thế Tổ mất năm kỷ mão (1819), trị vì được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế. 176
B. Thánh Tổ (Minh Mệnh) 1820-1840
1. Đức độ vua Thánh Tổ
2. Việc chính trị trong nước
3. Nội các
4. Cơ mật viện
5. Tôn nhân phủ
6. Quan chế
7. Đặt tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh
8. Lương bổng của các quan
9. Tiền dưỡng liêm
10. Sự học hành thi cử
11. Sách vở
12. Việc sửa sang phong tục
13. Nhà dưỡng tế
14. Việc dinh điền và thuế má
15. Việc võ bị
1. Đức Độ Vua Thánh Tổ.
Tháng giêng năm canh thìn (1820), Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.
Vua
Thánh Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại
hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới
được thi hành.
Ngài tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên
không ưa đạo mới, cho là một tả đạo lấy trời thánh ra mà làm mê hoặc
lòng dân. Bởi vậy, ngài mới nghiêm cấm và trừng trị những người theo đạo
Gia Tô.
Về sau có nhiều nhà làm sử, vì ý riêng mà cho ngài là bạo quân, thì thiết tưởng điều ấy không hợp với lẽ công bằng.
177
Phải
biết rằng nước ta từ xưa đến nay, điều gì cũng theo Nho Giáo, lấy tam
cương ngũ thường làm căn bản cho sự ăn ở. Vua tôi, cha con, vợ chồng, ấy
là cái khóa luân lý củ xã hội mình. Ai tháo cái khóa ấy ra thì cho là
không phải loài người nữa. Vậy con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai
trái với cái đạo ấy ra phải tội nặng, đáng chém giết.
Lúc trong nước
mình từ vua quan cho chí dân sự, ai ai cũng lấy cái lý tưởng ấy làm
phải, làm hay hơn cả, mà lại thấy có người bỏ đi theo đạo khác, nói
những chuyện mà lúc bấy giờ lại không mấy người hiểu rõ ra thế nào thì
tất cho là theo tả đạo làm hư hỏng cái phong tục hay của mình. Bởi vậy
cho nên nhà vua mới cấm, không cho người trong nước đi theo đạo mới.
Một
ông vua nghiêm khắc như Thánh Tổ mà cấm không được, thì tất là phải
giết. Trong khi cấm và giết như vậy, là vẫn tưởng mình làm bổn phận làm
vua của mình, chớ có biết đâu là mình làm sự thiệt hại cho dân cho nước.
Vả, bao giờ cũng vậy, hễ người ta đã sùng tín một tông giáo nào,
thì tất cho cái tông giáo của mình là hay hơn, và cho người theo tông
giáo khác là thù nghịch với mình, rồi hễ có quyền thế là làm thế nào
cũng dùng cách ấy mà hà hiếp người khác đạo với mình. Cũng vì lẽ ấy, cho
nên ngày trước Vua Phillippe II nước I Pha Nho, vua Louis XIV nước Pháp
Lan Tây giết hại bao nhiêu người trong nước. Mà chắc rằng lúc bấy giờ
các ông ấy cũng tưởng là mình làm điều phải, chớ có biết đâu là mình làm
điều trái lẽ.
Vẫn biết rằng sự giết đạo là sự không lành, nhưng
phải hiểu cái trí não người Việt Nam ta lúc bấy giờ, không rõ cái tông
chỉ đạo Thiên Chúa ra thế nào, cho nên dẫu không phải là vua Thánh Tổ
nữa, thì ông vua khác cũng không chắc đã tránh khỏi cái lỗi giết đạo ấy.
Nhà làm sử lại đổ cho vua Thánh Tổ giết Nguyễn Văn Thành, song xét
trong các truyện như sách Thực Lục Chính Biên và sách Đại Nam Chính Biên
Liệt Truyện thì chỉ thấy chép rằng Nguyễn Văn Thành bị tội phải uống
thuốc độc mà tự tử năm Gia Long thứ 15 mà thôi. Còn như vụ án Lê Văn
Duyệt và Lê Chất thì có hẹp hòi thật, nhưng khi các ông ấy đã mất rồi,
và lại vì có tên Khôi khởi loạn cho nên mới truy tội hai ông ấy mà làm
án, chứ lúc hai ông ấy còn sống, thì vua Thánh Tổ, tuy có bụng nghi ngờ,
nhưng vẫn không bạc đãi.
Việc ngài giết chị dâu là bà vợ Hoàng Tử
Cảnh và các cháu, thì không thấy sách nào chép cả, chỉ thấy một đôi
người truyền ngôn như thế mà thôi. Vậy việc ấy thực hư thế nào không rõ.
Còn việc không biết giao thiệp với các nước ngoại dương, thì không
phải là cái lỗi riêng một mình ngài. Lúc bấy giờ người mình ai cũng chỉ
biết có nước Tàu là văn minh hơn, còn thì cho là man di cả. Phỏng sử có
ai là người biết mà nói ở thiên hạ còn có nhiều nước văn minh hơn nữa
cũng không ai tin. Bởi thế, hễ thấy người ngoại quốc vào nước mình, thì
không những là sợ có sự phản trắc và sợ đem đạo mới vào nước mà thôi,
lại còn sợ lây phải cái phong tục dã man nữa, cho nên không muốn giao
thông với ngoại quốc làm gì. Như thế thì có nên riêng trách một mình ai
không ?
Cái nghĩa vụ làm sử, tưởng nên kê cứu cho tường tận, rồi cứ
sự thực mà nói, chứ không nên lấy lòng yêu ghét của mình mà xét đoán.
Dẫu người mình ghét mà có làm điều phải, mình cũng phải khen; người mình
yêu mà có làm điều trái, mình cũng phải chê. Vua Thánh Tổ là một ông
vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều
tàn ác, nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có lòng vì nước lắm. Trong,
lo sửa sang mọi việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài, đánh Tiêm
dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn.
Vậy cứ bình tình mà
xét, thì dẫu ngài không được là ông anh quân nữa, thì cũng không phải là
ông vua tầm thường; cứ xem công việc của ngài làm thì hiểu rõ.
2. Việc Chính Trị Trong Nước.
Vua
Thánh Tổ đã 30 tuổi mới lên ngôi vua, cho nên việc triều chính ngài đã
am hiểu lắm. Việc gì ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi,
ngài đòi một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh lý và hỏi những sự
tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ. Ngài chăm
xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai,
trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng: Lòng người
ai cũng muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay đổi luôn, nhưng lúc
trẻ mạnh mà không sửa sang mọi việc, thì rồi đến lúc già yếu, mỏi mệt
còn làm gì được. Bởi vậy cho nên trẫm không dám lười biếng lúc nào 143 .
Ở trong triều, thì ngài đặt thêm ra các tự và các viện. Bấy giờ có Nội Các và Cơ Mật Viện là quan trọng hơn cả.
3. Nội Các.
Đời
vua Thế Tổ đã đặt Thị Thư Viện làm chốn cơ yếu trong điện, để có điều
gì thì vua hỏi han và làm các việc như biểu, sách, chế, cáo,
143
Minh Mệnh Chính Yếu, quyển Cần Chính. 178 chương, tấu, sắc, mệnh, v.v.... Đại khái cũng tự hồ phòng bí thư của vua vậy.
Năm
canh thìn (1820) là năm Minh Mệnh nguyên niên, vua Thánh Tổ cải làm Văn
Thư Phòng; đến năm Minh Mệnh thứ mười (1829), đổi làm Nội Các, lấy quan
tam tứ phẩm ở các bộ, viện, vào quản lĩnh mọi việc.
4. Cơ Mật Viện.
Năm
giáp ngọ (1834) là năm Minh Mệnh thứ 15, nhân vì việc quân quốc cơ yếu
là việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới theo như Khu Mật Viện nhà Tống
và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà châm chước đặt ra Cơ Mật Viện, cho có trách
nhiệm riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy thì dùng 4 viên,
văn võ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc viên thì có viên
ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung
bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ cho đem kim bài để phân
biệt với các quan khác. Kim bài khởi đầu có từ đấy.
5. Tôn Nhân Phủ.
Năm
bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân
Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà vua.
Nhà vua
thờ tiên tổ có 7 miếu: những miếu phía tả gọi là chiêu, những miếu phía
hữu gọi là mục. Con cháu các dòng chiêu hay là mục phải phân biệt chi
nào ra chi ấy.
Đặt tôn nhân lệnh một người, tả hữu tôn chính hai
người, tả hữu tôn nhân hai người, để coi việc hoàng tộc và việc phân
biệt tự hàng chiêu hàng mục, ghi chép hàng lượt người thân người sơ,
việc nuôi nấng và cấp tước lộc cho mọi người trong hoàng tộc; lại đặt ra
hữu tôn khanh hai người, tả hữu tá lý hai người, để coi thứ trật mọi
người tôn thất và việc cấp dưỡng cho kẻ cô ấu, giúp đỡ những việc tang
hôn v.v....
6. Quan Chế.
Vua Thánh Tổ lại đặt các phẩm cấp quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi phẩm chia ra làm chánh và tòng hai bậc.
Văn
Võ Chánh Nhất Phẩm Cần chính điện đại học sĩ, Văn Minh điện đại học sĩ,
Võ hiển điện đại học sĩ, Đông các đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô
thống chưởng phủ sự. Tòng Nhất Phẩm Hiệp biện đại học sĩ. Ngũ quân Đô
Thống phủ đô thống. Chánh Nhị Phẩm Thượng thư, tổng đốc, tả hữu đô ngự
sử. Thống chế, đề đốc. Tòng Nhị Phẩm Tham tri, tuần phủ, tả hữu phó đô
ngự sử. Chưởng vệ, khinh xa đô úy,đô chỉ huy sứ,phó đề đốc. Chánh Tam
Phẩm Chưởng viện học sĩ, thị lang, đại lý tự khanh, thái thường tự
khanh, bố chính sứ, trực học sứ, thông chính sứ, thiêm sự, phủ doãn.
Nhất đẳng thị vệ, chỉ huy sứ, thân cấm binh vệ úy, lãnh binh. Tòng Tam
Phẩm Quang Lộc tự khanh, thái bộc tự khanh, thông chính phó sứ. Binh mã
sứ, tinh binh vệ úy, thâm cấm binh phó vệ úy, phó lãnh binh, kiêu kỵ đô
úy, phò mã đô úy. Chánh Tứ Phẩm Hồng lô tự khanh, đại lý tự thiếu khanh,
thái thường tự thiếu khanh, tế tửu, lang trung, thị độc học sĩ, thiếu
thiêm sự, thái y viện sứ, tào chính sử, phủ thừa, án sát sứ. Quản cơ,
nhị đẳng thị vệ, binh mã phó sứ, tinh binh phó vệ úy, thành thủ úy. Tòng
Tứ Phẩm Quang Lộc tự thiếu khanh, thái bộc tự thiếu khanh chưởng ấn,
cấp sự trung, thị giảng học sĩ, kinh kỳ đạo ngự sử, tư nghiệp, từ tế sứ,
quản đạo. Phó quản cơ, tuyên úy sứ, kị đô úy. Chánh Ngũ Phẩm Hồng lô tự
thiếu khanh, giám sát ngự sử, hàn lâm viện thị độc, viên ngoại lang,
trưởng sử, từ tế phó sứ,ngự y, giám chánh, tào chánh phó sứ,đốc học,phó
quản đạo. Tam đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng, phòng thủ úy.
Tòng Ngũ Phẩm Hàn lâm viện thị giảng, hàn lâm viện thừa chỉ, miếu lang,
giám phó, phó trưởng sử, phó ngự y, tri phủ. Tinh binh chánh đội, tứ
đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng suất đội, tuyên phó sứ, phi
kị úy. Chánh Lục Phẩm Hàn lâm việc trước tác, chủ sự, đồng tri phủ, kinh
huyện, tri huyện, y tả viện phán, ngũ quan chánh. Ngũ đẳng, thị vệ, cẩm
y hiệu úy, tinh binh chánh đội trưởng suất đội, thổ binh chánh đội, trợ
quốc lang. Tòng Lục Phẩm Hàn Lâm Viện tu soạn, tri huyện, tri châu,
miếu thừa, Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh 179 học
chánh, thông phán, thổ tri phủ, y hữu viện phán. chánh đội trưởng suất
đội. Chánh Thất Phẩm Hàn lâm viện biên tu, tư vụ, lục sự, giám thừa,
giám linh đài lang, giáo thụ, kinh lịch. Thân cấm binh chánh đội trưởng,
ân kị úy, thổ binh chánh đội trưởng suất đội. Tòng Thất Phẩm Hàn lâm
viện kiểm thảo, y chánh, tinh linh đài lang, thổ tri huyện, tri châu.
Tinh binh đội trưởng, phụng ân úy, dịch thừa, tòng thất phẩm thiên hộ,
nội tạo phó tư tượng. Chánh Bát Phẩm Hàn lâm viện điển tịch, huấn đạo,
chánh bát phẩm thơ lại. Chánh bát phẩm đội trưởng, chánh bát phẩm bá hộ,
dịch mục, chánh bát phẩm chánh tư tượng. Tòng Bát Phẩm Hàn lâm viện
điển bạ, y phó, tòng bát phẩm thơ lại. Tòng bát phẩm đội trưởng, tòng
bát phẩm bá hộ, thừa ân úy, tòng bát phẩm phó tư tượng. Chánh Cửu Phẩm
Hàn lâm viện cung phụng, chánh cửu phẩm thơ lại, thái y y chánh, tự
thừa, phủ lại mục. Chánh cửu phẩm đội trưởng, phủ lệ mục, chánh cửu phẩm
bá hộ, chánh cửu phẩm tượng mục. Tòng Cửu Phẩm Hàn lâm viện đãi chiếu,
tòng cửu phẩm thơ lại, tỉnh y sinh, huyện lại mục, chánh tổng. Tòng cửu
phẩm đội trưởng, tòng cửu phẩm bá hộ, huyện lệ mục, tòng cửu phẩm tượng
mục.
7. Đặt Tổng Đốc, Tuần Phủ ở các tỉnh.
Nguyên trước nước Nam ta
chia ra làm từng trấn, có quan Trấn Thủ, hay là quan Lưu Trấn để coi
việc trong trấn. Từ đời Gia Long trở đi, ở Bắc Thành và Gia Định Thành
đặt quan Tổng Trấn và quan Hiệp Trấn, để coi việc quân và việc dân trong
cả toàn xứ.
Đến năm tân mão (1831) là năm Minh Mệnh thứ 12, vua
Thánh Tổ mới theo lối nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh và đặt chức tổng
đốc, tuần phủ, bố chính sứ, án sát sứ và lĩnh binh.
Tổng đốc thì coi
việc quân, việc dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cõi ở trong hạt;
tuần phủ thì coi việc chính trị, giáo dục và giữ gìn phong tục; bố chính
sứ thì coi việc thuế má, đinh điền, lính tráng và triều đình có ân
trạch hay là cấm lệnh điều gì, thì phải tuyên cho mọi nơi biết; án sát
sứ thì coi việc hình luật và kiêm cả việc trạm dịch bưu chính; lĩnh binh
thì chuyên coi binh lính.
Từ tuần phủ trở xuống đều phải theo
lệnh quan tổng đốc. Thường thì tỉnh nào lớn, có lắm việc quan trọng mới
đặt tổng đốc để quản trị cả hai ba tỉnh. Còn những tỉnh nhỏ thì chỉ đặt
tuần phủ là quan đầu tỉnh 144 .
8. Lương bổng của các quan viên.
Năm kỷ hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.
Chánh
nhất phẩm:tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục 70 quan. Tòng
nhất phẩm: tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân phục 60 quan. Chánh
nhị phẩm:tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân phục 50 quan. Tòng nhị
phẩm: tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân phục 30 quan. Chánh tam
phẩm:tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền xuân phục 20 quan. Tòng tam
phẩm: tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền xuân phục 16 quan. Chánh tứ
phẩm:tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân phục 14 quan. Tòng tứ phẩm:
tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền xuân phục 10 quan. Chánh ngũ phẩm:tiền
40 quan, gạo 43 phương, tiền xuân phục 9 quan. Tòng ngũ phẩm: tiền 35
quan, gạo 30 phương, tiền xuân phục 8 quan. Chánh lục phẩm:tiền 30 quan,
gạo 25 phương, tiền xuân phục 7 quan. Tòng lục phẩm: tiền 300 quan, gạo
22 phương, tiền xuân phục 6 quan. Chánh thất phẩm:tiền 25 quan, gạo 20
phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20
phương, tiền xuân phục 5 quan. Chánh bát phẩm:tiền 20 quan, gạo 18
phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng bát phẩm: tiền 20 quan, gạo 18
phương, tiền xuân phục 4 quan. Chánh cửu phẩm:tiền 18 quan, gạo 16
phương, tiền xuân phục 4 quan. Tòng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16
phương, tiền xuân phục 4 quan.
Lại dịch binh tượng: mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương. Hậu bổ: mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương.
Từ
nhất phẩm đến tam phẩm, mỗi năm hai kỳ trình giấy lĩnh bỗng; tự tứ phẩm
đến thất phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng cuối mùa xuân, hạ, thu, đông,
trình giấy lĩnh bỗng; tự bát cửu phẩm trở xuống, thì cứ mỗi tháng đến
lĩnh một kỳ.
Tiền lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ mà so
sánh với bây giờ, thì thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu
thủa trước rẻ rúng không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện
thiếu thốn mà nhũng lạm của dân, cho nên mỗi năm lại phát thêm tiền
dưỡng liêm.
144
Đời vua Thế Tổ nước Nam ta có 27 trấn, đến đời
vua Thánh Tổ đặt thêm 4 tỉnh nữa là Hưng Yên, Ninh Bình, Hà tĩnh và An
Giang, cả thảy thành ra 31 tỉnh. 180
9. Tiền Dưỡng Liêm.
Tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.
Đồng tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.
Tri huyện, tri châu: tối yếu khuyết cho 40 quan, yếu khuyết 30 quan, trung khuyết 25 quan, giản khuyết 20 quan.
10. Sự Học Hành Thi Cử.
Việc
trị nước cần phải có văn học, cho nên từ đời vua Thế Tổ cũng đã lưu ý
về việc mở mang sự học hành. Đến đời vua Thánh Tổ thì ngài lại trọng sự
văn học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước thì trước
hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có lòng yêu dùng những người
có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở trong lục bộ, để học
tập việc chính trị. Mở Quốc Tử Giám cho các giám sinh được lương bổng ở
ăn học.
Đời vua Thế Tổ thì chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm nhâm
ngọ (1822) là năm Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy
tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người
trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có
từ đấy.
Nguyên trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm
một khoa, cứ năm tí, ngọ, mão, dậu, thi Hương; năm thìn, tuất, sửu, mùi,
thi Hội, thi Đình.
Phép thi thì vẫn theo như đời Gia Long, nghĩa là
kỳ đệ nhất: kinh nghĩa; kỳ đệ nhị: tứ lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ đệ
tứ: văn sách. Trước ai đỗ tam trường, gọi là sinh đồi, ai đỗ tứ trường
gọi là hương cống, nay đổi sinh đồ là tú tài, hương cống là cử nhân.
Vua
Thánh Tổ là ông vua thông minh, ngài vẫn biết sự học của nước ta sai
lầm, những sĩ phu trong nước chỉ học theo lối cử nghiệp, nghĩa là cốt
học lấy thi đỗ, chứ không mấy người có thực học. Thường ngài nói chuyện
với các quan rằng: "Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ
văn chương vốn không có qui củ nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ
câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối,
nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tráng lấy hay bỏ cũng do tự đó.
Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song
tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại". Vua
Thánh Tổ thật là biết rõ cái tật của những người đi học ở trong nước
ta, nhưng chỉ vì thói quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, thì
dễ thường cũng không biết đổi ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự
học của mình vẫn nguyên như cũ.
11. Sách Vở.
Vua Thánh Tổ mới
lên ngôi, đã lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt
những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những
người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ,
hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng
sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột Di Hoán Văn Thảo; ông
Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc Phả, 2 bản Kỷ Sự; ông Cung
Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng 7 quyển Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí;
ông Nguyễn Đình Chính người Thanh Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo
Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục.
Vua
Thánh Tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt Thánh Thực Lục Tiền Biên, bộ
Khâm Định Tiễu Binh Lưỡng Kỳ Phỉ Khấu Phương Lược, còn sách của ngài
soạn ra có hai bộ là Ngự Chế Tiễu Bình Nam Kỳ Tặc Khấu Thi Tập và Ngự
Chế Thi Tập.
12. Việc Sửa Sang Phong Tục.
Mấy năm về cuối đời
vua Thánh Tổ trong nước lắm giặc giã, phong tục thành ra kiêu bạc, dân
sự lắm người cờ bạc rượu chè và hay mê hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy
sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10 điều huấn dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo
ngu dân. 1. Đô Nhân Luân: trọng tam cương ngũ thường. 2. Chính Tâm
Thuật: làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính đính trong sạch.
3. Vụ Bản Nghiệp: giữ bổn phận chăm nghề nghiệp của mình. 4. Thượng Tiết
Kiệm: chuộng đường tiết kiệm. 5. Hậu Phong Tục: giữ phong tục cho thuần
hậu. 6. Huấn Tử Đệ: phải dạy bảo con em. 7. Sùng Chính Học: chuộng học
đạo chính. 8. Giới Dâm Thắc: răn giữ những điều gian tà dâm dục. 9. Thận
Pháp Thủ: cẩn thận mà giữ pháp luật. 10. Quảng Thiện Hạnh: rộng sự làm
lành.
Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, có quan giám sát
ngự sử là Bùi Mậu Tiên dâng sớ tâu rằng: "Các làng ở ngoài Bắc Thành
nhiều kẻ hào cường trái phép, mà dân thì biếng nhác chỉ cờ bạc rượu chè;
việc tế lễ quỷ thần thì hay dùng cách xa xỉ, việc táng tế thì chuộng
đường xa hoa, 181 thậm chí có kẻ bán sạch cửa nhà cơ nghiệp để đền nợ
miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân".
Vua Thánh Tổ bèn
xuống chiếu trách cứ các quan địa phương phải đem những điều huấn dụ đã
ban ra trước mà khuyên bảo dân sự, và phải chuyển sức cho tổng lý: hễ
thấy ai biếng nhác rong chơi cờ bạc rượu chè, thì phải cấm chỉ đi. Những
kẻ hào cường trong làng mà ỷ thế hống hách điêu toa kiện tụng, chống
cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình dân, thì phải theo phép mà trừng
trị. Còn những lệ thờ thần và lễ tang tế thì Lễ Bộ đã định ra phép tắc,
hễ ai không tuân theo thì phải tội.
13. Nhà Dưỡng Tế.
Không
những là vua Thánh Tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến
những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài
Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ
quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương nhờ, phải đến ở đó,
thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.
14. Việc Đinh Điền và Thuế Má.
Thuế
đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo như đời vua Thế Tổ đã định.
Chỉ có năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền
xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền thổ ở
miền ấy. Còn như số dân đinh và điền thổ trong nước, thì cứ theo sổ bộ
tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.
Những
dân Tàu sang thành lập hương ấp ở nước Nam ta gọi là Minh Hương, thì có
lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ giao dịch.
Những người lão hạng và tàn tật thì phải chịu một nửa.
Còn những
người nhà Thanh sang buôn bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật lực
thì đồng niên phải đóng 6 quan năm tiền; ai không có vật lực thì phải
nộp một nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu cả thuế.
Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.
Mỗi phương nộp bằng tiền thì phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.
Còn các thứ thuế mỏ, thuế sản vật, v.v... thì đại khái cũng theo lệ đời vua Thế Tổ đã định, chứ không thay đổi mấy đi.
15. Việc Võ Bị.
Khi
vua Thánh Tổ lên nối nghiệp làm vua, thì trong nước đã được yên trị,
nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có võ bị, cho nên thường
thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện tập binh mã để
phòng khi hữu sự.
Ở những nơi hiểm yếu thì lập đồn ải, ở các cửa
bể và các đảo thì lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy quân để
phòng giữ mặt bể.
Binh chế thì có bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ binh.
Bộ
binh thì có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia ra làm doanh, vệ, đội,
hoặc để đóng giữ ở Kinh thành, hoặc sai đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh
có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có suất đội và đội
trưởng cai quản.
Những binh khí của mỗi vệ, thì có hai khẩu súng thần công, 200 khẩu điểu thương và 21 ngọn cờ.
Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ thì có quản cơ, mà đội thì có suất đội cai quản.
Tượng
quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh thành 150
con, ở Bắc thành 110 con, ở Gia Định thành 75 con, ở Quảng Nam 35 con, ở
Bình Định 30 con, ở Nghệ An 21 con, ở Quảng Bình, Quảng Nghĩa, Thanh
Hóa mỗi nơi 15 con, Quảng Trị, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Bình mỗi nơi 7
con.
Thủy quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3 doanh.
Vua
Thánh Tổ vẫn biết rằng nước ở dọc bờ bể, thủy binh là việc rất yếu
trọng cho sự phòng bị. Thường ngài bắt quan đem binh thuyền ra để luyện
tập.
Đại khái việc binh cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập
toán giáo dưỡng binh, để cho con các quan võ, từ suất đội trở lên ai
muốn tình nguyện vào học, thì cho lương bổng, và cử quan đại thần ra dạy
võ nghệ.
Còn như khi nào có quân lính đi đâu, thì nhà vua đặt lệ sai mấy người y sinh đi theo để điều hộ.
182
Tuy
nhà vua muốn lưu ý về việc binh lính, nhưng người mình lúc bấy giờ ai
cũng trọng văn khinh võ, bình nhật không có ai lo gì đến việc quân lính
khí giới. Hễ có lâm sự thì mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có chỉ dụ
ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc lòng, các quan chỉ làm cho
xong việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào thì làm. Thành ra
quân số ở trong sổ sách thì nhiều, mà thế lực thì vẫn không đủ: ấy là
đời vua Thánh Tổ mà còn thế, huống chi đến những đời sau, lại còn suy
nhược hơn nữa.
1. Sự giặc giã
2. Giặc ở Bắc kỳ
3. Phan Bá Vành
4. Lê Duy Lương
5. Nông Văn Vân
6. Giặc ở Nam Kỳ
7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất
8. Giặc Tiêm La
9. Việc Ai Lao
10. Việc Chân Lạp
11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương
12. Sự cấm đạo
13. Vua Thánh Tổ mất
1. Sự Giặc Giã.
Vua
Thánh Tổ thật là hết lòng lo việc chính trị, điều gì ngài cũng xem xét
đến, việc gì ngài cũng sửa sang lại, có ý muốn cho nước thịnh dân giàu,
nhưng phải mấy năm về sau, trong nước có lắm giặc giã, quan quân phải
chinh nam phạt bắc, phải đánh Tiêm, dẹp Lào, thành ra dân sự không được
yên nghiệp mà làm
Xét sự giặc giã về đời vua Thánh Tổ là do ở ba lẽ cốt yếu:
Một
là khi nhà Nguyễn thất thế ở Nam, quân họ Trịnh thua ở Bắc, nhà Nguyễn
Tây Sơn còn phải lo việc trong nước, lúc bấy giờ nước Tiêm La nhân lấy
dịp ấy mà giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp và hiếp thế các nước ở đất Lào.
Đến khi vua Thế Tổ nhất thống nam bắc, thanh thế lừng lẫy, nước Chân
Lạp lại xin về thần phục nước Nam, và các nước Ai Lao, Vạn Tượng, đều
sang triều cống nhà Nguyễn. Từ đó nước Tiêm La đối với nước Nam, bề
ngoài tuy không ra mặt cừu địch, nhưng bề trong chỉ tìm cách mà sinh sự
để cướp lại cái quyền bảo hộ ở Chân Lạp và ở các nước Lào. Bởi vậy cho
nên 183 về phía tây và phía nam bao giờ cũng có giặc Tiêm và giặc Lào
quấy nhiễu mãi.
Hai là ở Bắc Kỳ tuy đã là thống thuộc về nhà Nguyễn
rồi, nhưng còn có người mong nhớ nhà Lê, thỉnh thoảng lại có nơi nổi
lên, hoặc muốn khôi phục cho nhà Lê, hoặc để chống cự với quan nhà
Nguyễn, bởi thế cho nên ở đất Bắc cứ phải loạn lạc luôn.
Ba là quan
lại cứ hay nhũng nhiễu, làm cho lòng người không được thỏa thuận, và
trong đám quan trường thường hay có thói bới móc nhau để tâng công tâng
cán. Nhà vua lại có tính hẹp hòi, không bao dong cho những kẻ công thần,
hay tìm chuyện làm uất ức mọi người, mà ở với thần dân thì nghiêm khắc
quá, cho nên mới thành ra nhiều sự rối loạn.
Bởi những lẽ ấy, cho
nên ở ngoài thì có giặc Tiêm đánh phá, ở trong thì có ngụy Khôi dấy loạn
ở phía nam. Lê Duy Lương và Nông văn Vân dấy binh ở phía bắc. Lúc bấy
giờ cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi như Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự,
Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ v.v.... đều ra công đánh dẹp, cho nên không
những là giặc trong nước dẹp yên, mà lại thêm được bờ cõi rộng rãi hơn
cả những đời trước.
2. Giặc ở Bắc Kỳ.
Sự giặc giã ở đất Bắc thì
từ năm Minh Mệnh thứ hai (1822) trở đi, thỉnh thoảng ở các trấn vẫn có
những giặc cỏ quấy nhiễu ở các châu huyện. Còn những giặc có thanh thế
to mà quan quân phải đánh dẹp khó nhọc, thì có Phan Bá Vành khởi ở Nam
Định, Lê Duy Lương khởi ở Ninh Bình và Nông Văn Vân khởi ở Tuyên Quang.
3. Phan Bá Vành.
Năm
Minh Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam Định có Võ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành
và Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà Lý và Lân Hải, giết quan thủ ngự
là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan trấn thủ ở Nam Định là Lê
Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất. Quan quân ở các trấn
phải về tiễu trừ, bắt được tên Võ Đức Cát. Còn tên Vành và dư đảng thì
chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh
lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi lại đem quân về
đánh phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải Dương.
Nhà
vua thấy thế giặc to lắm, bèn sai quan Tham biện Thanh Hóa là Nguyễn
Công Trứ, quan Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận đem binh thuyền ở
Thanh, Nghệ ra cùng với quan Hiệp trấn Bắc thành là Nguyễn Hữu Thận đi
đánh giặc.
Tháng giêng năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8,
Vành lại về đánh lấy phủ Thiên Trường và phủ Kiến Xương, sau lại về vây
quan quân ở chợ Quán. Phạm Văn Lý và Nguyễn Công Trứ đem quân đến đánh
giải vây, Vành thua chạy về giữ Trà Lũ. Quan quân vây đánh, bắt được
Vành và cả đảng hơn 765 người.
4. Lê Duy Lương.
Khi dẹp xong
giặc Vành thì trong xứ yên được một độ, nhưng còn có dòng dõi nhà Lê
muốn khôi phục nghiệp cũ, bởi vậy đến tháng ba năm quý tị (1833) là năm
Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh Bình có Lê Duy Lương, là con cháu nhà Lê nổi
lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ ti là Quách Tất Công,
Quách tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem binh đi đánh phá các
phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa và Yên
Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.
Vua Thánh Tổ sai quan tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra
Ninh Bình cùng với Tổng đốc Thanh hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh Lê
Duy Lương.
Lê Duy Lương ở Ninh Bình thế cô lắm, chống không nổi mấy
đạo quan quân, chỉ đương được vài ba tháng thì bị bắt, đóng cũi giải về
Kinh trị tội. Còn bọn Quách Tất Công, Quách Tất Tế thì chẳng được bao
lâu mà tan.
Vì có chuyện Lê Duy Lương dấy binh, cho nên nhà vua
truyền bắt dòng dõi nhà Lê đem đày vào ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình
Định, cứ chia cho 15 người ở một huyện và phát cho 10 quan tiền và 2 mẫu
ruộng để làm ăn.
5. Nông Văn Vân.
Ở Bắc còn đang dẹp loạn Lê
Duy Lương chưa xong, thì ở Nam Lê Văn Khôi làm phản, chiếm giữ thành Gia
Định. Nguyên tên Khôi là người Bắc, có họ hàng bà con mạn Tuyên Quang,
Cao Bằng, bởi vậy nhà vua sai quan tìm bắt anh em của tên Khôi đem về
Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn
Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên đánh phá trong hạt Tuyên Quang, Thái
Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn. Giặc Nông khởi từ tháng 7 năm quý tị
(1833) cho đến tháng 3 năm ất mùi (1835) dai dẳng trong non hai năm
trời, làm cho quan quân thật là vất vả.
Nông Văn Vân làm Tri châu
châu Bảo Lạc. Nhân thấy quan quân tìm bắt họ hàng Lê Văn Khôi, bèn nổi
lên tự xưng là Tiết Chế Thượng Tướng 184 Quân, và bắt viên tỉnh phái
thích chữ vào mặt rằng: "Quan tỉnh hay ăn tiền của dân", rồi đuổi về.
Nông
Văn Vân chia quân ra đánh phá các tỉnh, quan sở tại chống không nổi,
phải xin quân cứu viện. Vua Thánh Tổ được tin ấy, bèn sai Sơn Hưng Tuyên
Tổng Đốc là Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Đốc Quân Vụ, và sai Hải An
thự tổng đốc là Nguyễn Công Trứ làm tham tán, đem quân hội với Ninh Thái
Tổng Đốc là Nguyễn Đình Phổ đi tiễu trừ giặc Nông.
Quân giặc vây
đánh Cao Bằng và Lạng Sơn ngặt quá, nhà vua lại sai An Tĩnh tổng đốc là
Tạ Quang Cự làm tổng thống đại thần, lên đánh ở mạn Cao Bằng và Lạng
Sơn.
Nông Văn Vân nhận được chỗ mường mán lắm núi nhiều rừng, bèn
chia quân đi tản ra mọi nơi, tìm chỗ hiểm yếu mà ẩn nấp, hễ có quan quân
đến, đánh được thì tiến, không đánh được thì lui, cứ ra vào bất trắc,
lui tới không nhất định. Quan quân đi đánh thật là khó nhọc và lại hao
binh tổn tướng rất nhiều.
Tháng chạp năm quý tị (1833) đạo quân của
Tạ Quang Cự giải được vây tỉnh Lạng Sơn và lấy lại được thành Cao bằng.
Đạo quân của Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (tức là Bảo
Lạc) là chỗ sào huyệt của giặc. Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Tàu.
Nhưng
mà khi quan quân rút về, thì Nông Văn Vân lại về rủ đảng đánh phá như
cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến lên phòng giữ các tỉnh mạn ngược.
Đến
tháng 9 năm giáp ngọ (1834) Lê Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây
lên Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến Lâm, và Hồ Hữu đi từ Cao bằng;
Nguyễn Đình Phổ và Nguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên, ba mặt quân cùng
tiến lên hội tiễu. Quan quân đi đường sá khó khăn, lương thực vận tải
không tiện, nhưng mà quân sĩ đều cố hết sức, đi đến đâu quân giặc tan
đến đấy. Tháng chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân Trung, rồi sai
người đưa thư sang nói với quan nhà Thanh phòng giữ, đừng cho quân giặc
chạy sang bên ấy. Quả nhiên Nông Văn Vân lại chạy sang Tàu, bị quân Tàu
đuổi bắt, lại phải trở về Tuyên Quang.
Tháng 3 năm ất mùi (1835),
Phạm Văn Điển được tin biết chỗ tên Văn Vân ở, liền đem quân đi đuổi.
Văn Vân chạy ẩn vào trong rừng, Phạm Văn Điển bèn vây 4 mặt, rồi phóng
hỏa đốt rừng. Văn Vân bị chết cháy. Quan quân chém lấy đầu đem về Kinh
báo tiệp.
6. Giặc ở Nam Kỳ.
Đất Nam Kỳ là đất của nhà Nguyễn
khai sáng ra, và cũng bởi đấy mà vua Thế Tổ lập nên cơ nghiệp bản triều
bây giờ, thế mà lại có sự phản nghịch là tại làm sao? Có phần là tại vua
Thánh Tổ không dong thứ cho những kẻ cựu thần, có phần là tại những
người gian nịnh muốn chiều ý vua để lấy công, làm ức hiếp người ta, cho
nên mới thành ra sự loạn lớn ấy.
Nguyên mấy năm trước, Lê Văn Duyệt
làm tổng trấn ở Gia định thành, có uy quyền lắm, mà lòng người ai cũng
kính phục. Chỉ vì ông ấy là quan võ, tính khí nóng nảy, lắm khi ở chỗ
triều đường tấu đối không được hợp thể, vua Thánh Tổ lấy làm không bằng
lòng, nhưng ông ấy là bậc khai quốc công thần, cho nên ngài cũng làm ngơ
đi. Đến khi ông ấy mất, thì vua Thánh Tổ bãi chức Tổng Trấn thành Gia
Định và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lĩnh binh, như
các tỉnh ở ngoài Bắc.
Tỉnh Phiên An (tức là tỉnh Gia Định) có Nguyễn
Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt
làm án sát. Nhưng Bạch Xuân Nguyên vốn là người tham lam tàn ác; khi đến
làm bố chính ở Phiên an, nói rằng phục mật chỉ truy xét việc riêng của
Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt
ngày trước.
Trong bọn ấy có Lê Văn Khôi. Nguyên trước tên ấy gọi là
Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao Bằng, nhân cớ khởi binh làm loạn, bị quan
quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở
đấy, nó xin ra thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là
Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức Phó Vệ Úy.
Bấy
giờ Lê Văn Khôi bị bắt giam, phần thì tức giận, phần thì sợ tội, bèn
mưu với mấy người đảng của nó để dấy loạn; ở Gia Định lại có những người
có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào, hoặc cho làm ăn với dân sự, hoặc bắt làm
lính gọi là hồi lương; những lính ấy đều theo tên Khôi cả.
Đến đêm
ngày 18 tháng năm, năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi cùng
với 27 người lính hồi lương vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân
Nguyên, rồi ra gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu,
chúng cũng giết nốt. Còn quan Án và quan Lãnh thì chạy thoát được.
Bấy
giờ những quân kinh đóng ở Phiên An phần nhiều theo về Lê Văn Khôi. Lê
Văn Khôi bèn tự xưng làm Đại Nguyên Súy, phong cho đảng mình là bọn Thái
Công Triều và Lê Đắc Lực quản trung quân, Nguyễn Văn 185 Đà và Nguyễn
Văn Tông quản tiền quân, Võ Vĩnh Tiền và Võ Vĩnh Tài quản hữu quân, Võ
Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Bột quản hậu quân, Lưu Tín và Trần Văn Tha quản
thủy quân, Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Chân quản tượng quân, v.v....
Lại đặt các quan chức như một triều đình riêng vậy. Đoạn rồi Lê Văn Khôi
sai bọn Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành, chỉ trong một
tháng mà 6 tỉnh Gia Định thuộc về giặc cả.
Triều đình được tin ấy,
liền sai Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch tả tướng quân và Nguyễn Xuân
làm tham tán, sai Phan Văn Thúy làm Thảo nghịch hữu tướng quân, Trương
Minh Giảng làm tham tán, cùng với Bình Khấu tướng quân là Trần Văn Năng
đem thủy bộ binh tượng vào đánh Lê Văn Khôi.
Khi quan quân vào đến
Gia Định không biết tại cớ gì, mà trung quân của ngụy là Thái Công Triều
xin về đái tội lập công. Nguyên Thái Công Triều là người ở Thừa Thiên,
trước làm quan vệ úy, coi vệ biền binh đóng ở Gia Định, sau theo tên
Khôi làm phản. Nay lại trở về với triều đình, đem quân đi đánh Lê Văn
Khôi lấy lại các tỉnh.
Lê Văn Khôi biết thế không chống nổi, vào
thành Phiên An đóng cửa lại, rồi chia quân ra chống giữ, và lại sai
người đi sang Tiêm La cầu cứu. Quân Tiêm nhân dịp ấy, chia làm mấy đạo
sang đánh nước Nam. Việc ấy sẽ nói ở mục sau.
Quan quân một mặt thì
đánh đuổi quân Tiêm, một mặt thì vây đánh thành Phiên An, Lê Văn Khôi
hết sức chống giữ, nhưng đến tháng chạp năm ấy thì phải bệnh chết. Tuy
vậy, quân ngụy ở trong thành cứ chống giữ mãi, non ba năm trời quan quân
mới hạ được thành.
Thành Phiên An là thành của ông Lê Văn Duyệt xây
xong năm Minh Mệnh thứ 11 (1830). Xây toàn bằng đá ong, thành cao và
rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới, cho nên
quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết hại nhiều người, mà không lấy
được. Mãi đến tháng 7 năm ất tị (1835), quân ngụy ở trong thành đã mỏi
mệt lắm rồi, tướng quân là Nguyễn Xuân, và Nguyễn Văn Trọng mới hạ được
thành và vào bắt giết quân giặc cả thảy đến 1.831 người, đem chôn vào
một chỗ, nay gọi là "mả ngụy". Còn những người thủ phạm thì đóng cũi đem
về Kinh trị tội.
Ông J. Silvestre chép truyện Lê Văn Khôi khởi loạn ở Gia Định 145
nói rằng trong 6 người thủ phạm phải đóng cũi giải về Huế, có một ông linh mục
145
Xem
tập tạp chí "Revue Indochinoise" số 7-8 năm 1915 và quyển An Nam Sử
Lược "Abrégé de l histoire d Annam" của ông A. Schreiner. người nước
Pháp tên là Marchand (bấy giờ gọi là cố Du), một người khách tên là Mạch
Tấn Gia, và một đứa con của Khôi, mới lên 7 tuổi.
Việc ông cố
Marchand thì đã nhiều người bàn đi bàn lại: người thì bảo ông ấy có ý
muốn làm như ông Bá Đa Lộc, để giúp Lê Văn Khôi lập nên một nước theo
đạo Thiên Chúa ở Gia Định, người thì bảo ông ấy bị Lê Văn Khôi bắt vào
trong thành. Việc ấy vẫn phân vân không rõ hẳn ra thế nào.
Đến
khi về đến Huế thì ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng trì.
Thiết tưởng dẫu thế nào mặc lòng, đem một đứa con vô tội và 2 người
ngoại quốc ra làm cái tội thảm hình ấy, thì thật gớm ghê quá. Tục Á Đông
ta trước hay dùng những nhục hình như là tội lăng trì, tội ngựa xé, tội
voi dày v.v... thì thật là dã man vô cùng, ngày nay ai nghĩ đến cũng
phải ghê mình.
7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất: - Lê Văn Duyệt.
Quan
quân bình xong giặc Lê Văn Khôi rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên An
đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt và
tội Lê Chất.
Cứ bình tỉnh mà xét, thì chẳng qua là vua Thánh Tổ vốn
có ý không ưa hai ông ấy, rồi đình thần lại nhân đó mà bới việc ra để
chiều ý ngài, cho nên thành ra hai cái án thật là không đáng.
Nay cứ theo trong sách "Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện" mà chép ra, để mọi người đều được lấy lẽ công bằng mà phán đoán.
Từ khi tên Khôi khởi loạn, vua Thánh Tổ thường ban trách Lê Văn Duyệt che chở quân phỉ đảng, để gây nên hoạn loạn.
Năm
ất mùi (1835), ở Đô Sát Viện có Phan Bá Đạt dâng sớ nói rằng: Lê Văn
Duyệt trước ở Gia Định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, làm trảo nha,
lấy binh Bắc Thuận, Hồi Lương 146
làm tâm phúc. Bọn ấy vốn là quân
hung ác, không phải là người lương thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu
mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, đã đem quân Hồi Lương, Bắc thuận cùng
với bọn thủ hạ giữ thành làm phản; lại làm phiến hoặc nhân tâm, để vạ
lây đến các tỉnh Nam Kỳ, mà khó nhọc đến đại đội quan quân phải tiến
tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu phục rồi, song thành Phiên An tặc đảng vẫn
còn thiết cứ, quan quân tiến tiễu, lắm người thương vong, cái vạ ấy nói
sao cho xiết. Nay Duyệt mất rồi, sự trạng dẫu không có thể tường cứu
được, nhưng cứ xem con nuôi là Lê Văn Hán trước đây vào ra trong thành,
nhập đảng với
146
Bắc Thuận, Hồi Lương là những người ở Bắc Kỳ
bị tội phải đày vào làm lính ở Nam Kỳ. 186 nghịch Khôi, và đem Bạch Xuân
Nguyên làm đuốc để tế từ đường, thì tâm tích của Duyệt tưởng không phải
xét cũng đã rõ. Nếu không bắt tội e không làm gương được cho đời sau.
Vậy xin truy đoạt quan chức của Duyệt, còn vợ con thì giao về Hình Bộ
tra minh nghiêm nghị, để tỏ phép nước".
Vua dụ Nội Các rằng: "Lê Văn
Duyệt xuất tha6n từ kẻ yêm hoạn, vốn là một đứa đầy tớ trong nhà. Xảy
gặp hồi trung hưng, rồng mây gặp gỡ, đánh dẹp Tây Sơn, cũng dự có phần
công lao. Đức hoàng khảo ta nghĩ tới nó thủa nhỏ sai khiến ở trong cung,
mới đem lòng tin cậy, nhiều lần cho nó cầm quyền đại tướng. Không ngờ
bọn ấy phần nhiều là quân bất lương, mỗi ngày sinh ra kiêu căng, manh
tâm phản nghịch, sinh chí làm càn, ăn nói hỗn xược. Vì nó còn e Hoàng
Khảo ta thánh minh, cho nên dẫu có lòng gian mà chưa dám lộ. Mà hoàng
khảo ta đến vãn niên cũng đã biết rõ. Nhưng lại nghĩ hắn dẫu có lòng
gian, song thiên hạ đã yên rồi, thần dân ai còn theo kẻ thị hoạn đó, thì
chắc hắn cũng chẳng làm gì được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu thần không
còn mấy, vả lại nghĩ nó tuổi đã già, cho nên cũng tạm khoan dung, hoặc
là hắn biết nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công danh, thì cũng là việc
hay. Không ngờ kẻ kia lòng như rắn rết, tính tựa sài lang, càng ngày
càng sinh kiêu ngạo, dám nói xấu triều đình trước mặt chúng nhân, mà
khoe cái tài riêng của mình. Năm trước các quân tù phạm xứ Thanh, Nghệ
cùng là những kẻ hung ác, hắn đều chiêu dụ ra thú, tâu xin ghép vào
trướng hạ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi là quân vô lại, thì tiến cử đến
chức vệ úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm. Thổ hào như bọn Dương Văn
Nhã, Đặng Vĩnh Ưng thì hắn ngấm ngầm vời dùng; nhân thích như bọn Võ
Vĩnh Tiền, Võ Vĩnh Lộc thì hắn âm thầm lập đảng. Những kẻ tù phạm Bắc Kỳ
phát phối vào đó, hắn cho ở trong thành, rồi tha cho làm lính; lại kén
lấy những voi khỏe đem ra nơi đồn trú; vét lấy những thuyền bè khí giới
trong 6 tỉnh Nam Kỳ chứa vào thành Phiên An; rồi lại nghe tên Trần Nhật
Vĩnh mà hút hết cao huyết của dân Nam Kỳ. Đắp thành Phiên An, tiếm bằng
Kinh thành, hào thì đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để phòng giặc
Tiêm, thì đường bể phải phòng ở Hà Tiên, đường bộ phải phòng ở Chân
Lạp, có lẽ nào bỏ bốn tỉnh An, Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở
Phiên An hay sao? Thế là rõ rằng phòng Triều đình, chứ không phải phòng
ngoại hoạn. Cứ suy điều đó, thì ruột gan hắn, dẫu người đi đường cũng
biết, ai không căm tức, chỉ giận vì ai không chịu nói rõ cho Triều đình
biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi cái nhọt bọc để nên đau, mỗi
ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền yêm dẫu chịu tội minh tru, mà bọn
nhỏ nhặt còn dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai trị không hèn đốn
như Nguyễn Văn Quế, tham tàn như Bạch Xuân Nguyên, thì chúng nó có ngày
làm phản chứ không sao khỏI được. Vì bọn tiêu hạ hắn toàn là quân hung
đồ, quen làm những việc bất thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa,
lấn trên, đều bắt chước hắn. Thậm chí hắn nói với người tra rằng hắn vào
trấn Gia Định, vốn là phong vương để giữ lấy đất, chứ không phải như
các tổng trấn tầm thường khác. Mả của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là
lăng; hoặc dám đối với người ta, tự xưng là Cô, để cho bộ hạ tập quen
thành thói, chỉ biết có Lê Văn Duyệt mà không biết đến triều đình. Thầy
Hữu tử nói rằng: "Không ưa phạm người trên mà ưa làm loạn, chứ có lẽ ấy
bao giờ". Vậy thì ưa phạm người trên và không ưa làm loạn, cũng chưa có
lẽ thế bao giờ. Mối vạ gây nên đã lâu, lẽ nào mà muốn cho bọn tiêu hạ
không làm phản được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê Văn Khôi
đã khởi loạn, cháu hắn cũng đồng tình tạo phản, để cho cả bọn bộ khúc
của hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử đảng,
cậy có thành cao, hào sâu, lương thực như núi, khí giới tinh nhuệ, đồ
đảng lại nhiều, kháng cự lại vương sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều lần mở
đường sống cho nó, mà chúng nó không biết hối tội đầu thành, đến nỗi
binh dân gan óc lầy đường, nói ra đau xót đến gốc nguồn thì tội hắn kể
từng cái tóc cũng không xuể. Nay hãY đem những công việc của hắn làm, rõ
ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn loạn, hiểu thị cho ai nấy đều
biết. Còn như Lê Văn Duyệt và con cháu hắn nên xử tội thế nào, thì giao
cho đình thần nghị xử".
Vài hôm sau, nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri
Phương, Hoàng Quýnh tâu rằng: Duyệt che chở cho quân phỉ loạn, gây nên
sự biến, cái tai vạ tích lại đã lâu. Nay xét những giấy má của y ngày
trước, rõ ra hình tích bội nghịch, có 6 điều: 1) Năm Minh Mệnh thứ 4, y
tự tiện sai người riêng là bọn Phan Đạt giả danh đi thám, đi thuyền sang
nước Diến Điện. Trong thư ấy chắc có giao thông. Cứ lấy nghĩa "làm tôi
không có phép được giao thông với nước ngoài", thì tâm sự của y đã rõ,
ấy là một tội. 2) Đến khi sứ thần nước Diến điện đến thành, mới tâu vào
Triều Đình. Đã có chỉ dụ nói việc đó quan hệ đến đại nghĩa, không nên
khinh thường, nghe lời ngoài mà bỏ tình hòa hiếu, gây việc cừu thù. Vậy
mà y cố xin dung nạp. May mà triều đình trả đồ cống vật cho sứ Diến Điện
về nước, thì danh nghĩa nước lớn ta mới tỏ giải ra thiên hạ. Thế là y
chẳng những mưu việc nước không ra gì, mà lại cố giữ lấy ý riêng để che
điều lỗi, ấy là hai tội. 3) Năm Minh Mệnh thứ 7, tàu bạt phong nước Anh
Cát Lợi đậu vào cửa Bình Thuận, đã có chỉ sai sở tại hộ tống, mà y cố
xin đưa vào Gia Định, và nói rằng: "Quan trấn kiềm thúc, không bằng thần
có quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng lệnh và biết binh oai". Hai chữ "có
quyền" từ xưa vẫn lấy làm răn, mà y dám ngất ngưởng tự nhận, kiêu tứ
dường nào, ấy là ba tội. 4) Năm Minh Mệnh thứ 4, thị vệ là Trần Văn Tình
nhân việc công sai ở Gia Định về, có tâu việc Trần Nhật Vĩnh làm riêng
phố ngói, 187 mua trộm các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau vào chầu,
cố xin bắt Trần Văn Tình giao cho y để y chém, nếu không giao thì y xin
trả chức Tổng Trấn; rồi y xin từ chức thực. Có ý trêu quân như vậy, tội
gì còn to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần Văn Tình, thế là bắt
người ta phải khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng tâm nham
hiểm, ấy là bốn tội. 5) Trần Nhật Vĩnh đã có chỉ bổ thụ ký lục Vĩnh
Thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong thành. Lê Đại Cương có chỉ tuyên
triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc Hóa, đều là có ý vi chiếu.
Trong tập tâu của y lại nói rằng: "Chuẩn cho thần cầu xin việc ấy, thì
hầu có ích cho việc ngoài biên cương"; lại ở trong tập tâu xin chi bổng
cho bọn thơ lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng: "Lão thần xa ở ngoài biên
khổn, chỉ e triều đình tin dùng không được vững bền". Trong lời lẽ ấy
đều là không kính, ấy là 5 tội. 6) Năm Minh Mệnh thứ 6, y tâu xin tăng
thọ cho Lê Chất, có nói rằng: "Ấy là vị thánh dược khởi tử hồi sinh,
tiếc gì mà không làm". Y là chức biên khổn dám kết đảng tư tình như thế,
rất trái với đạo làm tôi, ấy là 6 tội. Vả lại nghe y bình nhật thường
khoe chuyện với người ta rằng: y xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:
Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng Phù Chu ninh hậu thập Chu thần Tha niên tái ngộ Trần kiều sự Nhất đán hoàng báo bức thử thân
Dịch
Nôm Giúp Hán há thua cùng tướng Hán Phò Chu nào kém bọn tôi Chu Trần
kiều nếu gặp cơn binh biến Mảnh áo hoàng bào để ép nhau!
Giá y không
phải là người sẵn có bụng bất trung, thì không khi nào dám khoe bài ấy
với người ta. Bởi vậy bọn tiêu hạ tập quen thành thói, cho nên thây y
chưa lạnh mà đã có việc này. Vậy xin giao cả lời tâu này cho đình thần
kết án để chính tội. Vua ưng cho.
Đến khi nghị án xong, trích ra các
lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội nên trảm: 1. Sai người đi riêng
sang Diến Điện, âm kết ngoại giao. 2. Xin giao tàu Anh Cát Lợi đến
thành, để tỏ có quyền. 3. Xin giết thị vệ là Trần Văn Tình, để khóa
miệng người ta. 4. Kháng sớ xin lưu quan viên bổ đi chỗ khác. 5. Lập
đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất. 6. Giấu chứa giấy ngự bảo. 7. Mộ cha,
tiếm gọi là lăng, đối với người ta, tự xưng là Cô.
Có 2 tội nên
giảo: 1. Cố xin dung nạp Diến Điện để che chở cái lỗi của mình. 2. Nói
chuyện với người ta xin được quẻ thẻ có câu thơ hoàng báo.
Một tội nên phát quân: 1. Tự tiện sai biền binh tu tạo tàu thuyền.
Sự
biến Phiên An, y thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào
tội lăng tri; song y đã chịu minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bỏ
quan quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. Còn như tằng tổ,
tổ phụ của y được phong tặng cáo sắc, thì xin truy đoạt cả; tiên phần có
tiếm dụng trái phép nào thì tước hủy đi; con, cháu, vợ cả, vợ lẽ, đều
phân biệt nghị tội; tài sản thì tịch biên hết.
Án ấy đệ lên. Những
tội nguyên nghị trảm quyết đổi làm giam hậu, con cháu từ 15 tuổi trở
xuống, tạm hãy nghiêm cấm; trẻ thơ ấu chưa biết gì thì tha không bắt; ba
họ phải phát nô cũng đều tha; nguyên nghĩ lục thì cũng thôi.
Lại
sai Hình bộ sao bản văn án phát cho tổng đốc, tuần phủ các tỉnh, cho cứ ý
kiến riêng mà tâu về. Hộ phủ Lạng Bình là Trần Huy Phác xin điều phép
tội trảm quyết. Hộ phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức xin người nào từ 16 tuổi
trở lên đều chém, còn thì đều y như đình nghị. Tổng đốc Bình Phú là Võ
Xuân Cẩn, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Văn Trạm cũng đều xin y đình nghị.
Lại nói kèm một cầu rằng: hoặc nên lấy công bù tội châm chước ít nhiều
thì tự Thiên Ân.
Dụ rằng: "Xem vậy thì đủ biết lẽ Trời không sai, mà
công đạo ở lòng người không ai giấu được. Kẻ quyền gian kia gây vạ,
thiên hạ ai cũng căm tức luôn, muôn miệng cùng lời, đủ tỏ cái án sắt
nghìn xưa. Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói
ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song
nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mã,
không bõ gia hình. Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất
phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ "Chỗ này là nơi
quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp", để chính tội danh cho kẻ đã chết, mà
tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời.
188
Không những Lê Văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê Văn
Hán cũng giao thông với giặc, thì thân thuộc phải tội, trong luật đã có
điều nói rõ rồi. Song nghĩ nó chẳng qua cuồng dại một lúc, qua lại với
giặc mà thôi, sánh với kẻ trước sau theo giặc kháng cự quan quân, hơi có
khác nhau. Và đã xử cực hình, cũng đủ tỏ phép nước rồi. Những kẻ thân
thuộc khác, khép tội trảm giam hậu, cũng đủ cho nó phục tội. Lời dụ này
chuẩn lục tống phát cho mỗi tỉnh một đạo, để cho ai nấy đều biết Triều
Đình xử rất công, rõ ràng cái cân ba thước mà nghiêm như rìu búa nghìn
thu".
Án Lê Chất: Án Lê Văn Duyệt phát ra năm trước thì năm sau có
quan Lại bộ tả thị lang là Lê Bá Tú truy tham những tội bất thần của Lê
Chất, có 6 tội nên chết: 1. Chất cùng Duyệt toan mưu làm việc Y, Hoắc
(phế lập), bị hai đứa ở nói hở ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc
miệng, là một tội. 2. Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng tử để làm con
nuôi, muốn bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội. 3. Muốn cho con
gái chính vị trong cung, không được thỏa chi, nói ra những lời oán vọng,
là ba tội. 4. Thường nói chuyện với Lê Văn Duyệt rằng: "Người ta thường
nói trời, vua và cha mẹ, người làm con, làm tôi dù có điều bất bình,
cũng không dám giận, mà một mình tôi dám giận" là bốn tội. 5. Lại nói
rằng: "Vua cậy có Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Hữu Thuận phúc tâm, chỉ đem độ
vài trăm người vào chầu, quát to một tiếng, bọn ấy cũng phải phục xuống
đất, rồi ta muốn làm gì ta làm" là năm tội. 6. Lại nói rằng quốc tính
đổi làm tôn thất, đều là bọn Hoài Đức a dua xui giục, nên đem chém ở
trước cửa miếu để chính tội, là sáu tội.
Lại có 10 tội tiếm loạn: 1.
Khi y ở Bắc thành, đầu năm điểm binh, dám lên lầu Ngũ môn ngồi chính
giữa. 2. Đệ niên thuyền tải ngoài bể, y lấy của riêng mà tải vào thuyền
công. 3. Cùng với Lê Văn Duyệt dâng biểu từ chức để bắt bí nhà vua. 4.
Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự tiện. 5. Trái phép, ăn lễ, giàu đến nghìn
vạn. 6. Tấu sớ không hợp phép, có chỉ không cho, mà cứ nhất định nộp
lại, có Lê Văn Duyệt ngăn đi mới thôi. 7. Nuôi những cung nữ tiên triều,
không biết kiêng nể gì. 8. Nơi công sảnh tiếm làm gác chuông, gác
trống. 9. Tội án Lê Duy Thanh đã thành, lại còn cùng với Lê Văn Duyệt cố
xin nghị lại. 10. Điều bổ cơ binh, phủ binh, xin lấy chức quan văn mà
thi hành.
Vậy xin giao cho đình nghị, để chính tội danh làm gương cho kẻ gian trăm đời.
Vua
dụ rằng: "Chất, tính vốn sài lang, nết như ma quỷ, làm tôi thì bất
trung, bất chính, xử việc thì đại ác đại gian, việc nào cũng càn rỡ, ai
là chẳng tức giận, chẳng những là 16 tội mà thôi đâu. Trước kia trẫm
nghĩ hắn cùng với Lê Văn Duyệt, dẫu mang lòng bất thần, nhưng người ta
không chịu theo, thì chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất phẩm đại
thần; dù có mưu gian mà thần dân chưa cáo tố, thì không nỡ bắt tội. Kể
đến hắn lại chịu tội minh tru rồi thì lưới trời tưởng cũng không thoát,
cho nên cũng chẳng kể làm gì nữa. Nay đã có người tham hạch, vậy thì
phải trái công, đã có triều đình pháp luật. Chuẩn cho đình thần đem 16
điều tội của hắn mà định rõ tội danh, vợ con cũng án luật mà nghị xử,
duy con gái nào đã xuất giá, cùng là cháu trai còn nhỏ thì tha".
Đình
thần nghị rằng: Chất, bất pháp bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên
lăng trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo. Những tội phạm phận, âm mưu
điều bất quỷ, thì khép vào tội bạn nghịch mà xử lăng trì. Song y đã chịu
tội minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bổ áo quan, lục thây, khiêu
thủ để thị giới. Còn cáo sắc phong cho cha mẹ y, cũng xin truy đoạt; vợ
là Lê Thị Sai từng đồng mưu bạn với chồng, nghĩ trảm lập quyết. Lại phát
cho các tổng đốc, tuần phủ, mỗi nơi một đạo văn án, để cho đem ý riêng
bày tỏ tâu về, cho công lòng chúng. Các địa phương tâu về, đều xin y
đình nghị.
Ngài dụ rằng: "Như vậy đủ rõ lẽ trời ở tại lòng người,
công luận không bao giờ mất. Kẻ gian thần chứa vạ, muôn miệng cùng một
lời, đủ làm án sắt thiên cổ. Vả Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt, dựa nhau
làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết, giá
thử bổ áo quan giết thây, cũng không là quá. Song lại nghĩ Chất tội cũng
như Duyệt, trước kia Duyệt đã không bổ áo quan giết thây, thì nắm xương
khô của Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho tổng đốc Bình Phú Võ
Xuân Cẩn san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy chữ:
"Chỗ nầy là nơi Lê Chất phục pháp" để làm gương cho kẻ gian tặc muôn
đời. Còn vợ hắn là Lê Thị Sai cùng ở một nhà, dự biết mưu bạn nghịch, xử
vào cực hình, cũng là phải, song kẻ đàn bà chẳng cần vội vàng chính
pháp. Vậy Lê Thị Sai cùng con là Lê Cẩn, Lê Trương, Lê Thường, Lê Kỵ,
đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch biên gia sản, được hơn 12.000 quan
tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho 147 .
147
Đến năm Tự đức nguyên
niên (1847) quan đông các đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn làm sớ tâu xin gia
ân cho con cháu Nguyễn Văn Thành. Trong bài sớ có lắm câu thảm thiết. Có
chỗ nói rằng: "Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đều có lòng
theo mây đợi gió, xông pha chỗ mũi tên hòn đạn, thân làm đại tướng, tước
đến quận công, sau hoặc vì con dại, hoặc vì cậy công mà làm thành tội
..... Dù bọn Nguyễn Văn Thành có tội, thì tội đã trị rồi, mà công thì
không hỏi đến, 189
8. Giặc Tiêm La.
Nước Tiêm La tự khi mất
quyền bảo hộ ở Chân Lạp, vẫn có ý muốn sinh sự với nước Nam, nhưng còn
sợ thế lực Nguyễn Triều chưa dám làm gì, chỉ thỉnh thoảng sang sinh sự
với những nước ở Lào. Hễ khi nào Tiêm và Lào đánh nhau, thì nhà vua sai
quan quân phòng giữ những chỗ biên thùy, và sang cứu viện những nước bị
người Tiêm bắt nạt. Như năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, nước
Tiêm đánh lấy nước Vạn Tượng (Vientiane), quốc trưởng nước ấy là A Nỗ
chạy sang cầu cứu, vua Thánh Tổ sai quan thống chế là Phan Văn Thúy làm
kinh lược biên vụ đại thần đem binh tượng sang cứu A Nỗ.
Tháng
chín năm ấy, bọn Lê Đức Lộc, Nguyễn Công Tiến đem binh ở Nghệ An chia
làm hai đạo đi đường Quy Hợp và đường Lạc Phàm qua Trấn Ninh sang cứu A
Nỗ. Đi đến đâu vẽ những sông núi hình thế hiểm trở rồi gửi về Kinh.
A
Nỗ mất nước không lấy lại được, phải theo quân An Nam về Nghệ An, đợi
thu xếp quân sĩ để về đánh báo thù. Đến năm mậu tí (1828), A Nỗ nói rằng
quân Lào tụ hợp được đủ rồi, xin cho quan quân đưa về nước. Vua Thánh
Tổ sai Phan Văn Thúy làm kinh lược đại thần, Nguyễn Văn Xuân làm phó,
Nguyễn Khoa Hào làm tham tán, đem 3.000 quân và 24 con voi, đưa A Nỗ về
Trấn Ninh.
Đến Trấn Ninh, A Nỗ xin đem quân Lào về Vạn Tượng
(Vientiane). Phan Văn Thúy cho hai đội quân Thần Sách đi hộ tống. Về đến
Vạn Tượng, A Nỗ đem quân đi đánh quân Tiêm, quân sĩ chết hại rất nhiều,
rồi lại sai người sang Nghệ An xin viện binh.
Vua Thánh Tổ thấy A
Nỗ hay sinh sự đánh nhau mà không được việc gì, bèn không cho quân sang
cứu, chỉ xuống lệnh truyền cho các hạt ở Lào phải phòng giữ những chỗ
biên thùy. A Nỗ không có quân cứu viện, bị quân Tiêm đến đánh, lại phải
bỏ thành mà chạy sang Trấn Ninh. Được ít lâu, Chiêu Nội là thủ lĩnh Trấn
Ninh bắt A Nỗ đem nộp cho Tiêm La.
Quân Tiêm La phá được Vạn Tượng
rồi, lại xâm vào đến các châu phụ thuộc về nước Nam, ở mạn gần Quảng
Trị. Vua Thánh Tổ sai thống chế Phạm Văn Điển, kinh lý mọi việc ở Cam
Lộ, sai Lê Đăng Doanh làm tham tán quân vụ, cùng với quân các đạo ở Lào
đi tiễu trừ.
chẳng hóa ra đem cái công lao bách chiến mà để đến nỗi
cái tàn hồn phải bơ vơ như ma trơi ngoài đồng, khác nào quỷ Mạc Ngao
không ai thờ cúng không?" Vua Dực Tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm động
bèn truy phong cho bọn Nguyễn Văn Thành, và cấp phẩm hàm cho các con
cháu.
Phạm Văn Điển, một mặt thì cho người đem thư sang trách nước Tiêm La sinh sự, một mặt thì chia quân, làm ba đạo tiến lên đánh.
Tướng
Tiêm la viết thư trả lời một cách khiêm nhường lắm, rồi rút quân về. Từ
đó nước Tiêm bề ngoài vẫn thông sứ đi lại để giữ sự hòa hiếu, nhưng
ngấm ngầm cứ tìm cách quấy nhiễu nước Nam. Ở phía tây nam, người Tiêm
vẫn dung túng những người phản nghịch nước Chân Lạp, mà ở phía tây bắc
thì vẫn cứ hà hiếp Vạn Tượng và các nước nhỏ khác. Dù thế mặc lòng, vua
Thánh Tổ không muốn gây việc binh đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang
trải mọi việc.
Đến cuối năm quý tị (1833) nhân có ngụy Khôi khởi
loạn ở đất Gia Định và tên Khôi lại cho người sang cầu cứu vua Tiêm La
bèn sai quân thủy bộ chia ra làm 5 đạo sang đánh Việt Nam.
Đạo thứ
nhất thủy quân đem hơn 100 chiếc thuyền vào đánh lấy Hà Tiên; đạo thứ
nhì bộ quân sang đánh Nam Vang (Phnon-penh), rồi tiến lên đánh lấy Châu
Đốc và An Giang; đạo thứ ba đánh lấy mặt Cam Lộ; đạo thứ tư đánh Cam
Cát, Cam Môn, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.
Tuy rằng quân nghịch năm
đạo cùng tiến, nhưng chủ đích của Tiêm La là cốt đánh Chân Lạp và Nam
Kỳ, còn các đạo khác là để phân quân lực của nước Nam mà thôi.
Vua
Thánh Tổ được tin báo cấp, liền xuống chiếu sai quan quân phòng ngự các
nơi. Phía tây nam thì sai quân thứ ở Gia Định, chia quân cho Trương Minh
Giảng và Nguyễn Xuân đi tiến tiễu ở mặt An Giang. Phía tây bắc thì sai
Lê Văn Thụy giữ mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị, Phạm Văn Điển giữ mặt Nghệ
An. Lại sai Nguyễn Văn Xuân 148
làm kinh lược đại sứ đi tiễu trừ quân Tiêm và quân Lào ở Trấn Ninh.
Trương
Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá quân Tiêm La ở sông Cổ cắng. Quân
Tiêm La ở Chân Lạp cũng bị người bản xứ đánh phá. Chỗ nào quân nghịch
cũng thua to chết hại rất nhiều; chỉ trong một tháng mà quan quân lấy
lại Hà Tiên và Châu Đốc, đuổi quân Tiêm ra khỏi bờ cõi, rồi tiến lên
đánh lấy thành Nam Vang và đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước.
148
Nguyễn
Xuân thì làm tham tán đại thần theo Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn Xuân
thì làm hữu quân lĩnh An tĩnh tổng đốc đi đánh mặt Trấn Ninh. 190
Trương
Minh Giảng và Nguyễn Xuân từ Nam Vang tiến lên đánh quân Tiêm, liền phá
mấy trận, chém tướng bắt binh lấy được súng ống khí giới không biết
ngần nào mà kể. Tướng Tiêm La là Phi Nhã Chất Tri đem bại binh chạy về
nước, quan quân đuổi đánh lấy thành Phú Túc (Pursat) rồi cho người Chân
Lạp ở lại giữ các nơi: chỗ nào hiểm yếu thì làm đồn đắp lũy, để phòng
ngự quân giặc.
Những đạo quân Tiêm và quân Lào sang đánh ở mặt Quảng
Trị, Nghệ An và Trấn Ninh, đều bị tướng quân là Nguyễn Văn Xuân, Phạm
Văn Điển và Lê Văn Thụy đánh đuổi, chỗ nào quan quân cũng được toàn
thắng, giữ được bờ cõi nguyên như chỗ cũ cả.
Quân Tiêm sang đánh từ
tháng giêng năm giáp ngọ (1834), đến tháng năm năm ấy, thì quan quân đã
bình xong cả mọi nơi. Vua Thánh Tổ mừng rỡ, ban thưởng cho các tướng sĩ
và bố cáo ra cho mọi nơi đều biết.
9. Việc Ai Lao.
Nước Nam ta
về đời vua Thánh Tổ thì to rộng hơn cả, là vì quân Tiêm La cứ hay sang
quấy nhiễu cho nên các xứ ở Lào đều xin về nội thuộc nước ta.
Năm
đinh hợi (1827), người Nam chưởng (Luan Prabang) thông với Tiêm La, rồi
cứ đem quân xuống quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng là Chiêu Nội xin
đem đất Trấn Ninh về nội thuộc Việt Nam. Vua Thánh Tổ phong cho Chiêu
Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ cai quản cả 7 huyện, lại phong cho những
thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa. Chiêu Nội dâng sổ dân đinh
và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và 28 sở ruộng.
Lại có đất
Tam động và Lạc Phàn ( trước thuộcvề Vạn Tượng) cũng xin nội thuộc.
Triều đình chia những đất ấy ra làm hai phủ là Trấn Tĩnh phủ và Lạc biên
phủ. Năm ấy lại có xứ Xa hổ (?), Sầm Tộ (Sam teu), Mường soạn (?), Mang
Lan (Mường Lam), Trình Cố (Xiêng-khô), Sầm nứa (Sam- neua), Mương Duy
(?) và ở Ngọc Ma có Cám cát (Kham-keut), Cam Môn và Cam Linh (?) đều xin
về nội thuộc. Vua Thánh Tổ chia những đất ấy ra làm ba phủ là Trấn
Biên, Trấn Định và Trấn Man.
Phủ Trấn biên có bốn huyện là Xa hổ, Sầm tộ, Mang soạn, Mang lan; phủ Trấn định 149
có
3 huyện là Cam cát, Cam môn, và Cam linh. Hai phủ ấy đều thuộc về Nghệ
An. Còn phủ Trấn Nam có 3 huyện là Trình Cố, Sầm nứa, Man Duy thì thuộc
về Thanh Hóa.
149
Ở gần địa hạt Hà tĩnh bây giờ.
Ở miền
Cam Lộ thuộc Quảng Trị lại có những mường Mang vang (?), Ná bi (?),
Thượng kế (?), Tả bang (?), Xương thịnh (?), Tầm bồn (?), Ba lan (?),
Mang bổng (?), Lang thời (?), xin về nội thuộc, chia ra làm 9 châu, cho
chiếu lệ triều cống.
Đại khái là đất Sầm nứa, đất Trấn Ninh, đất Cam môn và đất Savannakhet bây giờ, thủa ấy thuộc về Việt Nam ta cả.
10. Việc Chân Lạp.
Ở
nước Chân Lạp thì từ khi quan quân phá được giặc Tiêm rồi, Tướng quân
là Trương minh Giảng và tham tán là Lê Đại Cương lập đồn An Nam ở gần
Nam vang để bảo hộ Chân Lạp.
Cuối năm giáp ngọ (1834), vua nước Chân
Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về
cả mấy người phiên liêu là bọn Trà Long và La Kiên. Những người này đều
là người Chân Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam. Đến năm ất mùi
(1835), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Nặc Ông Chân tên là
Angmey lên làm quận chúa, gọi là Ngọc Vân công chúa, rồi đổi nước Chân
Lạp ra làm Trấn tây thành, chia ra làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng
quân, một tham tán đại thần, một đề đốc, một hiệp tán, và 4 chánh phó
lĩnh binh, để coi mọi việc quân dân. Ở các chỗ yếu hại, lại đặt chức
tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.
Năm canh tí (1840), nhà vua sai Lê
Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh
Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo
ruộng đất, định thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.
Nhưng
vì quan lại Việt Nam ta sang làm nhiều điều trái lẽ, nhũng nhiễu dân sự,
lại bắt Ngọc Vân công chúa đem về để ở Gia Định, bắt bọn Trà Long và Lê
Kiên đày ra Bắc Kỳ, dân Chân Lạp ai cũng oán giận, chỗ nào cũng có giặc
giã nổi lên đánh phá. Lại có em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa,
có người Tiêm La giúp đỡ, thành ra quan quân đánh mãi không được. Về
sau khi vua Thánh Tổ mất rồi, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà rút về
An Giang.
Ấy cũng là vì người mình không biết bênh vực kẻ hèn
yếu, chỉ đem lòng tham tàn mà ức hiếp người ta, cho nên thành ra hao tổn
binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là thiệt
hại cho nước mình.
11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương.
Việc
giao thiệp của nước Nam ta với các nước ngoại dương mà ngăn trở là bởi
có 191 hai lẽ: một là vì sự cấm giảng đạo thiên chúa; hai là vì người
nước mình lúc bấy giờ không hiểu thời thế, cứ tự đắc mình là văn minh
hơn người, không chịu học tập như người ta mà theo đường tiến bộ.
Nước
ta từ đời thập thất thế kỷ, về nhà Hậu Lê đã có người Âu-la-ba ra vào
buôn bán, hoặc ở Phố Hiến (Hưng Yên), hoặc ở cửa Hội An (Faifo), đều
không có việc gì ngăn trở cả. Chỉ có sự giảng đạo Thiên chúa ở trong
nước là hay bị sự ngăn cấm. Ngày trước chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã có
dụ nghiêm cấm. Đến đời Nguyễn Tây Sơn thì trong nước rối loạn, còn phải
lo việc chiến tranh, cho nên không nói đến việc cấm đạo. Về sau, khi vua
Thế Tổ nhất thống cả nam bắc, thì ngài nhớ ơn bên đạo có công giúp rập
trong lúc gian truân, vẫn để các giáo sĩ được phép đi giảng đạo mọi nơi.
Mãi đến đời vua Thánh Tổ thì việc nước đã yên, nhà vua lưu ý về sự giáo
hóa, lấy Nho đạo làm chính đạo và cho các tôn giáo khác làm tả đạo, bắt
dân gian phải bỏ tà theo chính. Sự cấm đạo lại khởi đầu phát ra nữa.
Mà
cũng vì sự cấm đạo, cho nên sự buôn bán của những người ngoại dương ở
nước ta, thành ra ngăn trở. Bởi vì Triều đình thấy thỉnh thoảng có chiếc
tàu buôn lại, thì có một vài người giáo sĩ vào giảng đạo, ngăn cấm thế
nào cũng không được, tưởng là có ý do thám gì chăng, cho nên lại càng
nghi ngờ lắm.
Vả lại về đời nhà Nguyễn lúc bấy giờ, ở trong nước
cũng không có người ngoại quốc ra vào buôn bán, chỉ có người Pháp Lan
Tây trước đã theo giúp vua Thế Tổ, rồi ở lại làm quan tại triều là
Chaigneau và Vannier. Khi vua Thế Tổ hãy còn, thì Chaigneau có xin về
nước Pháp nghỉ ba năm, đến năm đinh mùi (1821), ông ấy trở sang thì lại
nhận chức lãnh sự và chức khâm sai của vua Louis XVIII, đem đồ phẩm vật
và tờ quốc thư sang điều đình việc thông thương với nước Nam. Chaigneau
sang đến nơi, thì vua Thế Tổ mất rồi, vua Thánh Tổ tiếp đãi Chaigneau
cũng tử tế, và ngày sai quan trả lời cho Pháp Hoàng rằng nước Nam và
nước Pháp không việc gì mà phải làm điều ước về việc thương mại. Việc
vào buôn bán ở nước Nam, thì cứ theo luật nước Nam, không điều gì ngăn
trở cả.
Năm nhâm ngọ (1822) có chiếc tàu chiến của Pháp tên là
Cléopâtre vào cửa Đà nẵng, người quản tàu tên là Courson de La Ville
Héllio nhờ Chaigneau xin phép cho vào yết kiến vua Thánh Tổ; ngài không
cho. Tháng 7 năm ấy, có tàu Anh Cát Lợi vào Đà nẵng xin thông thương,
nhà vua cũng không cho.
Chaigneau thấy nhà vua càng ngày càng nhạt
nhẽo với mình, và cũng không làm được công việc gì có ích, bèn cùng với
Vannier xin từ chức, rồi đến cuối năm giáp thân (1824), hai người xuống
tàu đi qua Gia Định về Pháp.
Tháng giêng năm ất dậu (1825), lại có
thủy quân đại tá nước Pháp là ông Bougainville đem hai chiếc tàu chiến
là Thétis và Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem đồ phẩm vật và quốc thư, xin
vào yết kiến vua Thánh Tổ. Ngài nói rằng nước Pháp và nước Anh là hai
nước cừu địch, mà nước ta trước đã không tiếp sứ Anh Cát Lợi, lẽ nào nay
lại tiếp sứ nước Pháp. Vả lúc bấy giờ Chaigneau và Vannier đã về cả
rồi, ngài bèn sai quan đem đồ vật ra ban thưởng cho sứ nước Pháp và nói
rằng ở trong triều không có ai biết tiếng Pháp, cho nên không thể tiếp
được.
Qua năm sau (1826) chính phủ Pháp lại sai cháu ông Chaigneau
sang làm lĩnh sự thay cho chú, nhưng sang đến nơi, Triều đình nước ta
không nhận, đến năm kỷ sửu (1829) lại phải trở về.
Từ đó cho đến 10
năm về sau nước Pháp tuyệt giao với nước Nam ta. Mà lúc bấy giờ chỉ trừ
mấy người giáo sĩ đi giảng đạo ở chỗ thôn dã ra, thì trong nước cũng
không có người ngoại dương nào ở nữa.
12. Sự Cấm Đạo.
Từ khi vua
Thánh Tổ lên ngôi, ngài đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng
đạo ở trong nước. Đến năm ất dậu (1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa Đà
Nẵng, có một người giáo sĩ tên là Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi,
vua Thánh Tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo, và truyền cho các quan phải
khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng:
"Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục,
cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo".
Ngài
lại sai tìm bao nhiêu những giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế để dịch
những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ý là không phải vì việc dịch sách,
nhưng là để cho khỏi đi giảng đạo ở chốn hương thôn.
Lúc bấy giờ
không phải là một mình vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những
quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm.
Nhưng mà dẫu cấm thế nào mặc lòng, trong nước vẫn có người đi giảng đạo,
nhà vua lấy điều đó làm trái phép, lại có dụ ra lần nữa truyền cho dân
bên giáo phải bỏ đạo, và ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng.
Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và ở các nơi cũng rối
loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.
192
Từ đó trở đi, trong Nam
ngoài Bắc, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ cho dân bên đạo
theo giúp quân giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834) cho
đến năm mậu tuất (1838), có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ
khi bắt được cố Du (P. Marchand) ở Gia Định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn
trước nữa.
Nhà vua một mặt thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn
điều ra đê/ khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền
để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin
tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng
là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc gì mà làm khổ
dân sự như thế? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống chết đi
truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng mấy tháng
để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô
ích mà thôi. Năm mậu tuất (1838), vua Thánh Tổ thấy cấm thế nào cũng
không được những người đi giảng đạo trong nước, ngài bèn sai sứ sang
nước Pháp để điều đình với chính phủ Pháp về việc ấy. Song khi sứ thần
Việt Nam sang đến nơi, thì hội Ngoại Quốc Truyền Đạo xin Pháp Hoàng là
vua Louis Philippe đừng tiếp 150 . Sứ thần ta phải trở về không; khi về
đến Huế thì vua Thánh Tổ đã mất rồi.
Về sau việc cấm đạo cứ dai dẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.
13. Vua Thánh Tổ Mất.
Vua Thánh Tổ mất năm canh tí (1840), thọ được 50 tuổi, và trị vì được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.
Trong
đời vua Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại
cả, làm thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ vì ngài nghiêm khắc quá,
cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà biến hóa phong tục; lại không
biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, và
lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta ở lẻ loi một
mình.
Đã hay rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả
triều đình và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chi một
mình ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong nước
hay dỡ thế nào, ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không sao chối
từ được. Vậy cứ bình tình mà xét, thì chính trị của ngài tuy có nhiều
điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết cương mà không biết
nhu, ngài có uy quyền
150
Sách Histore de la Cochinchine
Francaise của ông Cultru. mà ít độ lượng, ngài biết có dân có nước mà
không biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy cho nên nói rằng ngài là một ông
anh quân thì khí quá, mà nói rằng ngài là ông bạo quân thì không công
bằng. Dẫu thế nào mặc lòng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm,
hết lòng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào
làm được nhiều công việc hơn ngài vậy
C. Hiến Tổ (Thiệu Trị) 1841-1847
1. Đức độ vua Hiến Tổ
2. Việc Chân Lạp
3. Việc Tiêm La
4. Việc giao thiệp với nước Pháp
1. Đức Độ Vua Hiến Tổ.
Tháng giêng năm tân sửu (1841) Hoàng Thái Tử húy là Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa đặt niên hiệu là Thiệu Trị.
Tính
vua Hiến Tổ thuần hòa, không hay bày ra nhiều việc và cũng không được
quả cảm như Thánh Tổ. Trong đời Ngài làm vua, học hiệu, chế độ, thuế mà,
điều gì cũng theo như triều vua Thánh Tổ cả. Bầy tôi lúc bấy giờ có
Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương,
Lâm Duy Tiếp trong ngoài ra sức giúp rập. Nhưng mà đất Nam Kỳ có giặc
giã, dân Chân Lạp nổi loạn, quân Tiêm La sang đánh phá, nhà vua phải
dùng binh đánh dẹp mãi mới xong.
2. Việc Chân Lạp.
Nguyên
từ cuối đời đức Thánh Tổ, đất Nam Kỳ và đất Chân Lạp đã có giặc giã,
các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ
cứ phải đem quân đi tiễu trừ mãi, đánh được chỗ này thì chỗ kia nổi lên.
Sau ở Nam Kỳ lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy chùa làm loạn ở Trà Vinh;
ở Chân Lạp thì những người bản xứ cùng với người Tiêm La đánh phá. Quan
quân chống không nổi. Triều đình lấy việc ấy làm lo phiền. Năm Thiệu
Trị nguyên niên (1841), ở trong Triều, ông Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất
Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền
cho tướng quân là Trương Minh Giảng rút quân về. Trương Minh Giảng về
đến An Giang thì mất. Bởi vì việc kinh lý đất Chân Lạp là ở tay ông cả,
nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà, ông nghĩ xấu
hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.
3. Việc Tiêm La.
Khi
quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam
Kỳ, thì quân Tiêm La lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc để
đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng thống đem binh tướng đi tiễu
trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn
Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên
đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây. Quan
quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi
hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu.
Nguyên là Nặc Ông Đôn 151
đem
quân Tiêm La về cứu viện để đánh lấy lại nước. Nhưng khi đến Việt Nam
rút về rồi, quân Tiêm La tàn bạo, người Chân Lạp lại không phục, có
người sang cầu cứu ở Nam Kỳ, vua bèn sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc
Chân Lạp.
Tháng sáu năm ất tị (1845), là năm Thiệu Trị thứ năm,
Võ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn
Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Dây Sắt, lấy lại
thành Nam Vang, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người.
Đoạn
rồi, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh đuổi đánh quân Tiêm La và
quân Chân Lạp, vây Nặc Ông Đôn và tướng Tiêm La là Chất Tri ở Ô-Đông
(Oudon).
Tháng chín năm ấy, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua
tháng mười thì Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Chất Tri ký tờ hòa ước ở
nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng
ở Trấn Tây, đợi quân Tiêm thi hành những điều ước đã định.
Tháng chạp năm bính ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống.
Tháng
hai năm đinh mùi (1847) là năm Thiệu Trị thứ bảy, Triều đình phong cho
Nặc Ông Đôn làm Cao Miên Quốc Vương và phong cho Mỹ Lâm Quận Chúa làm
Cao Miên Quận Chúa. Lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn Tây rút
về An Giang.
Từ đó nước Chân Lạp lại có vua, và việc ở phía nam mới được yên vậy.
151
Nặc Ông Đôn là em Nặc Ông Chân, chú nàng Ang-mey là Ngọc Vân quận chúa. 194
4. Việc Giao Thiệp với nước Pháp.
Từ
khi vua Hiến Tổ lên trị vì, thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít.
Nhưng mà triều đình vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn
giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin
Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho
năm người giáo sĩ được tha.
Qua năm ất tị (1845) là năm Thiệu
Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bấy giờ có người
quản tàu Mỹ Lợi Kiên ở Đà Nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho hải
quân thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem
chiếc tàu Alemène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.
Năm đinh mùi
(1847) quan nước Pháp được tin rằng ở Huế không còn giáo sĩ phải giam
nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai
chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho
người trong nước được tự do theo đạo mới.
Lúc hai bên còn đang
thương nghị về việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng ở
gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới
nghi có sự phản trắc gì chăng, bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy,
rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.
Vua Hiến Tổ thấy sự trạng như thế,
tức giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo, và
trị tội những người trong nước đi theo đạo.
Việc tàu nước Pháp
vào bắn ở Đà nẵng xong được mấy ngày tháng, thì vua Hiến Tổ phải bệnh
mất. Bấy giờ là tháng chín năm đinh mùi (1847), năm Thiệu Trị thứ bảy.
Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37 tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ Chương
Hoàng Đế.
D. Dực Tông (Tự Đức) 1847-1883
1. Đức độ vua Dực Tông
2. Đình thần
3. Việc ngoại giao
4. Việc cấm đạo
5. Việc thuế má
6. Việc văn học
7. Việc binh chế
1. Đức độ vua Dực Tông.
Vua
Hiến Tổ mất, truyền ngôi lại cho hoàng tử thứ hai húy là Hồng Nhậm. Bấy
giờ hoàng tử mới có 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10
năm đinh mùi (1847), thì ngài lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt
niên hiệu là Tự Đức, lấy năm sau là năm Mậu Thân làm Tự Đức nguyên niên.
Vua Dực Tông đối với vận hội nước Nam ta thật là quan hệ, vì là đến
đời ngài thì nước Pháp sang bảo hộ, đổi xã hội mình ra một cảnh tượng
khác. Bởi vậy cho nên ta cần phải biết rõ ngài là người thế nào, để xét
đoán những công việc thời bấy giờ cho khỏi sai lầm. Quan tổng đốc Thân
Trọng Huề đã được trông thấy dung nhan của ngài và đã tả rõ chân tượng
của ngài ra như sau này: "Ngài hình dung như một người nho sĩ, không
cao, không thấp, trạc người bậc trung, không gầy không béo, có một phần
hơi gầy một tí. Da không trắng không đen. Mặt hơi dài; cằm hơi nhỏ, trán
rộng mà thẳng, mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh mà lành.
Ngài
hay chít cái khăn vàng mà nhỏ, và mặc áo vàng, khi ngài có tuổi thì hay
mặc quần vàng đi giày hàng vàng của nội vụ đóng. Ngài không ưa trang sức
mà cũng không cho các bà nội cung đeo đồ nữ trang, chỉ cốt lấy sự ăn
mặc sạch sẽ làm đẹp.
Tính ngài thật là hiền lành. Những người
được hầu gần ngài nói chuyện rằng: một hôm ngài ngự triều tại điện Văn
Minh, ngài cầm cái hoa 195 mai 152
sắp hút thuốc, tên thái giám đứng
quạt hầu, vô ý quạt mạnh quá, lửa hoa mai bay vào tay ngài. Tên thái
giám sợ xanh mặt lại, mà ngài chỉ xoa tay, chứ không nói gì cả.
Ngài
thờ đức Từ Dụ rất có hiếu. Lệ thường cứ ngày chẵn thì chầu cung, ngày
lẽ thì ngự triều: trong một tháng chầu cung 15 lần, ngự triều 15 lần,
trừ khi đi vắng và khi se yếu 153 . Trong 36 năm, thường vẫn như thế,
không sai chút nào.
Khi ngài chầu cung thì ngài tâu chuyện này
chuyện kia, việc nhà việc nước, việc xưa việc nay. Đức Từ Dụ thuộc sử
sách đã nhiều mà biết việc đời cũng rộng. Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay,
thì ngài biên ngay vào một quyển giấy gọi là Từ Huấn Lục.
Một hôm rảnh việc nước, ngài ngự bắn tại rừng Thuận Trực 154
gặp
phải khi nướt lụt. Còn hai ngày nữa thì có kị đức Hiến Tổ, mà ngài chưa
ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan đại thần là Nguyễn Tri Phương đi
rước. Nguyễn Tri Phương đi được nữa đường, vừa gặp thuyền ngự đương chèo
lên, mà nước thì chảy mạnh, thuyền không đi mau được. Gần tối thuyền
ngự mới tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà ngài vội vàng lên kiệu trần đi
thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dụ ngồi xoay mặt vào màn,
chẳng nói chẳng rằng chi cả. Ngày lấy một cây roi mây, dâng lên để trên
ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, đức Từ Dụ
xoay mặt ra lấy tay hất cái roi mà ban rằng:
- Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kị.
Ngài
lạy tạ lui về, nội đêm đó ngài phê thưởng cho các quan quân đi hầu ngự.
Quan thì mỗi người được một đồng tiền bạc, lớn nhỏ tùy theo phẩm, còn
lính thì mỗi tên được một quan tiền kẽm. Đến sáng ngài ngự ra điện Long
An lạy kị. Xem cách ngài thờ mẹ như thế, thì tự xưa đến nay ít có.
Tính
ngài siêng năng, sáng chừng năm giờ, ngài đã ngự tánh, nghĩa là thức
dậy, chừng sáu giờ, ngài đã ra triều. Cho nên các quan ở Kinh buổi ấy
cũng phải dậy sớm để mà đi chầu. Thường thấy các quan thắp đèn ăn cháo
để vào triều cho sớm.
152
Hoa mai là một sợi dây làm bằng chỉ để thắp lửa mà hút thuốc. 153
Se yếu là đau yếu. Tiếng se ở Huế nói cách tôn kính, như vua đau thì nói vua se mình. 154
Cách
Kinh thành chừng độ 15 cây số, ở bên bờ sông Lợi Giang, có một cái rừng
cấm gọi là Thuận Trực. Chỗ ấy nhiều chim, đức Dực Tông thường ngự đến
bắn ở đấy.
Thường ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ở bên tả điện
cần chính. Các quan đến sớm, quan văn thì ngồi chực tại tả vu, quan võ
tại hữu vu. Khi ngài đã ngự ra, thì thái giám tuyên triệu các quan vào
chầu. Các quan đều mặc áo rộng xanh, đeo thẻ bài đi vào, quan văn bên
hữu, quan võ bên tả 155 .
Khi các quan theo thứ tự đứng yên rồi,
quan bộ Lại hay là quan hộ Binh tâu xin cho mấy ông quan mới được thăng
thuyên bái mạng. Các quan bái mạng thì phải chực ở ngoài, đợi bộ Lại hay
là bộ Binh tâu xong mới được vào. Quan văn thuộc bộ Lại, quan võ thì
thuộc bộ binh. Bái mạng thì phải mặc áo đại trào.
Các ông bái mạng
xong rồi, bộ nào có việc gì tâu thì đến chỗ tấu sự quỳ tâu. Như bộ nào
có tâu việc gì thì các quan ấn quan trong bộ ấy đều quỳ chỗ tấu sự, rồi
ông nào tâu, thì đọc bài diện tấu. Một bên các quan tấu sự lại có một
ông quan nội các và một ông ngự sử đều quỳ. Quan nội các để biên lời
ngài ban; quan ngự sử để đàn hạch các quan phạm phép.
Đức Dực Tông đã thuộc việc mà lại chăm cho nên nhiều bữa ngài ban việc đến chín mười giờ mới ngự vào nội.
Ngài
thường làm việc ở chái đông điện Cần Chánh. Trong chái ấy lót ván đánh
bóng. Gần cửa kính có mấy chiếc chiếu, trên trải một chiếu cạp bằng hàng
vàng, để một cái yên với nghiên bút, một trái dựa (cái gối dựa), chứ
không bày bàn ghế gì cả. Cách một khoảng có để một cái đầu hồ với thẻ.
Ngày làm việc mỏi thì đứng dậy đánh đầu hồ, hay là đi bách bộ. Ngài ngồi
làm việc một mình, vài tên thị nữ đứng hầu để mài son, thắp thuốc hay
là đi truyền việc.
Lệ nước ta xưa nay các quan không được vào chỗ ngài ngự tọa làm giúp việc cho vua, cho nên việc lớn việc nhỏ, ngài phải xem cả.
Phiến
sớ ác nơi đều gởi về nội các. Nội các đề trong tráp tấu sự, đưa cho
giám, giám đưa cho nữ quan dâng lên ngài. Ngài xem rồi giao nội các. Nội
các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, lục bản phó ra cho các bộ
nha.
155
Khi ngài ngự điện Thái Hòa hay là điện Cần Chính,
hay là đi hành lễ điện Phụng Tiên, thì quan văn lại đứng bên tả, quan võ
bên hữu, duy ở điện Văn Minh thì quan võ bên tả, quan văn bên hữu,
không biết tại làm sao? 196
Nay xem các nguyên bản trong Các, thì
thấy có nhiều tờ phiến ngài phê dài hơn của các quan tâu. Chữ đã tốt mà
văn lại hay, ai cũng kinh cái tài của ngài.
Ngài vốn là người hiếu
học. Đêm nào ngài cũng xem sách đến khuya. Có ba tập Ngự Chế Thi Văn của
ngài đã in thành bản. Ngài lại làm sách chữ nôm để dạy dân cho dễ hiểu,
như là sách Thập Điều, Tự Học Diễn Ca, Luận Ngữ Diễn Ca, v.v..."
Xem
cái chân tượng của vua Dực Tông như thế, thì ngài không phải là người
to béo vạm vỡ 156 , mà cũng không phải là ông vua tàn ác bạo ngược như
người ta thường nói. Chỉ vì ngài làm vua về một thời đại khó khăn, trong
nước lắm việc, mà những người phò tá thì tuy có người thanh liêm như
ông Trương Đăng Quế, ông Vũ Trọng Bình, trung liệt như ông Phan Thanh
Giản, ông Nguyễn Tri Phương, ông Hoàng Diệu, v.v.... nhưng mà các ông ấy
đều là người cũ, không am hiểu thời thế mới. Vả lại các thế lực lúc bấy
giờ kém hèn quá, dẫu có muốn cải cách duy tân, cũng không kịp nữa, cho
nên mọi việc đều hỏng cả.
2. Đình Thần.
Đình thần là các quan ở
trong Triều giúp vua để lo việc nước. Nhưng lúc bấy giờ tình thế đã nguy
ngập lắm, vì từ đầu thập cửu thế kỷ trở đi, sự sinh hoạt và học thuật
của thiên hạ đã tiến bộ nhiều mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch
liệt hơn trước. Thế mà những người giữ cái trách nhiệm chính trị nước
mình, chỉ chăm việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự
thì phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ, Thương, Chu, việc mấy nghìn năm trước cứ
đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ nghễu nghện tự xưng mình hơn
người, cho thiên hạ là dã man. Ấy, các đình thần lúc bấy giờ phần nhiều
là những người như thế cả. Tuy có một vài người đã đi ra ngoài, trông
thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, thì các cụ ở nhà cho là nói bậy,
làm hủy hoại mất kỷ cương! Thành ra người không biết thì cứ một niềm tự
đắc, người biết thì phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được,
phải ngồi khoanh tay mà chịu.
Xem như mấy năm về sau, nhà vua thường
có hỏi đến việc phú quốc cường binh, các quan bàn hết lẽ nọ lẽ kia, nào
chiến, nào thủ, mà chẳng thấy làm được việc gì ra trò. Vả thời bấy giờ,
cũng đã có người hiểu rõ thời thế, chịu đi du học và muốn thay đổi
chính trị. Như năm bính dần (1866) là
156
Ta thường trông thấy
có cái tranh vẽ một người to lớn vạm vỡ, mặt mũi dữ tợn mà mặc áo đội mũ
không ra lối lăng gì cả, ở dưới cái tranh có chữ đề là vua Tự Đức. Cái
tranh ấy chắc là của một người nào tưởng tượng mà vẽ ra chứ không phải
là chân dung của ngài. Vì là thủa trước chỉ trừ những quan đại thần và
những người được vào hầu cận, vua ta không cho ai trông thấy mặt, mà
cũng không bao giờ có hình ảnh gì cả. năm Tự Đức thứ 19, có mấy người ở
Nghệ An là Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đi du học
phương tây. Sau Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, kể hết cái
tình thế nước mình, và cái cảnh tượng các nước, rồi xin nhà vua phải mau
mau cải cách mọi việc, không thì mất nước. Vua giao những tờ điều trần
ấy cho các quan duyệt nghị. Đình thần đều lấy làm sự nói càn, không ai
chịu nghe.
Năm mậu thìn (1868) là năm Tự Đức thứ 21, có người ở Ninh
Bình tên là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần nói nên đặt doanh điền,
khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương tây vào buôn bán,
luyện tập sĩ tốt để phòng khi chiến thủ, thêm lương thực cho quan quân,
bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có công, nuôi nấng những
người bị thương, tàn tật, v.v.... Đại để là những điều ích quốc lợi dân
cả, thế mà đình thần cho là không hợp với thời thế, rồi bỏ không dùng.
Các
quan đi sứ các nơi về tâu bày mọi sư, vua hỏi đến đình thần thì mọi
người đều bác đi, cái gì cũng cho là không hợp thời. Năm kỷ mão (1879)
là năm Tự Đức thứ 32, Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La về nói rằng khi người
nước Anh Cát Lợi mới sang xin thông thương, thì nước Tiê m La lập điều
ước cho ngay, thành ra người Anh không có cớ gì mà sinh sự để lấy đất,
rồi Tiêm La lại cho nước Pháp, nước Phổ, nước Ý, nước Mỹ v.v... đặt lĩnh
sự để coi việc buôn bán. Như thế mọi người đều có quyền lợi không ai
hiếp chế được mình. Năm tân tị (1881) là năm Tự Đức thứ 34, có Lê Đĩnh
đi sứ ở Hương Cảng về, tâu rằng: các nước Thái Tây mà phú cường là chỉ
cốt ở việc binh và việc buôn bán. Lấy binh lính mà bênh vực việc buôn
bán, lấy việc buôn bán mà nuôi binh lính.
Gần đây Nhật Bản theo các
nước Thái Tây cho người đi buôn bán khắp cả mọi nơi. Nước Tàu cũng bắt
chước cho người ngoại quốc ra vào buôn bán. Nước ta, người khôn ngoan,
lại có lắm sản vật, nên theo người ta mà làm thì cũng có thể giữ được
quyền độc lập của nước nhà.
Năm ấy lại có quan hàn lâm viện tu soạn
là Phan Liêm làm sớ mật tâu việc mở sự buôn bán, sự chung vốn lập hội,
và xin cho người đi học nghề khai mỏ. Giao cho đình thần xét, các quan
đều bàn rằng việc buôn bán không tiện, còn việc khác thì xin đòi hỏi các
tỉnh xem thể nào, rồi sẽ xét lại. Ấy cũng là một cách làm cho trôi
chuyện, chứ không ai muốn thay đổi thói cũ chút gì cả. Nhân việc đó vua
Dực Tông khuyên rằng các quan xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho
chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến, thì tức là
thoái vậy.
197
Xem lời ấy thì không phải là vua không muốn thay
đổi. Chỉ vì vua ở trong cung điện, việc đời không biết rõ, phải lấy các
quan làm tai làm mắt, mà các quan thì lại số người biết thì ít, số
người không biết thì nhiều. Những người có quyền tước thì lắm người
trông không rõ, nghe không thấy, chỉ một niềm giữ thói cũ cho tiện việc
mình. Lại có lắm người tự nghĩ rằng mình đã quyền cả ngôi cao, thì tất
là tài giỏi hơn người, chứ không hiểu rằng cái tài giỏi không cần phải
nhiều tuổi, sự khôn ngoan không phải làm quan to hay là quan nhỏ. Cái
phẩm giá con người ta cốt ở tư tưởng, học thức, chứ không phải ở tiền
của hay là ở quyền tước.
Đến khi nước Pháp đã sang lấy đất Nam Kỳ,
đã ra đánh Bắc Kỳ, tình thế nguy cấp đến nơi rồi, thế mà cứ khư khư giữ
lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì hơi mới một tí, thì bác đi. Như thế thì
làm thế nào mà không hỏng việc được.
Đã hay rằng vua có trách nhiệm
vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông cũng không
tránh khỏi cái lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác ly, thì cái lỗi
của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ vậy.
3. Việc Ngoại Giao.
Việc
chính trị đời Dực Tông là nhất thiết không cho người ngoại quốc vào
buôn bán. Như năm canh tuất (1850) là năm Tự Đức thứ 3, có tàu Mỹ Lợi
Liên vào cửa Đà Nẵng, đem thư sang xin thông thương, nhà vua không tiếp
thư.
Từ năm ất mão (1855) cho đến năm đinh sửu (1877) tàu Anh Cát
Lợi ra vào mấy lần ở cửa Đà Nẵng, cửa Thị Nại (Bình Định) và ở Quảng
Yên, để xin buôn bán, cũng không được. Người I Pha Nho và nước Pháp Lan
Tây xin thông thương cũng không được.
Về sau đất Gia Định đã mất
rồi, việc ngoại giao một ngày một khó, nhà vua mới đặt Bình Chuẩn Ti để
coi việc buôn bán, và Thương Bạc Viện để coi việc giao thiệp với người
ngoại dương. Tuy vậy nhưng cũng không thấy ai là người hiểu việc buôn
bán và biết cách giao thiệp cả.
4. Việc Cấm Đạo.
Việc cấm đạo
thì từ năm mậu thân (1848) là năm Tự Đức nguyên niên, vua Dực Tông mới
lên ngôi, đã có dụ cấm đạo. Lần ấy trong dụ nói rằng những người ngoại
quốc vào giảng đạo, thì phải tội chết, những người đạo trưởng ở trong
nước mà không chịu bỏ đạo, thì phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở
chỗ nước độc. Còn những ngu dân thì các quan phải ngăn cấm, đừng để cho
đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có giết hại v.v....
Đến
năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, lại có dụ ra cấm đạo. Lần này,
cấm nghiệt hơn lần trước, và có mấy người giáo sĩ ngoại quốc phải giết.
Sức
đã không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Đã không cho người
ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi
thế cho nên nước Pháp và nước I Pha Nho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta
vậy.
5. Việc Thuế Má.
Thuế má trong nước đời bấy giờ, thì đại
khái cũng như đời vua Thánh Tổ và Hiến Tổ, duy chỉ từ khi nước Pháp và
nước I Pha Nho vào đánh lấy mấy tỉnh Nam Kỳ rồi, lại phải bồi tiền binh
phí mất 4 triệu nguyên, nhà nước mới tìm cách lấy tiền, bèn cho người
khách tên là Hầu Lợi Trịnh trưng thuế bán thuốc nha phiến từ Quảng Bình
ra đến Bắc Kỳ. Sử chép rằng đồng niên nhà vua thu được có 302.200 quan
tiền thuế nha phiến.
Nhà vua lại định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở
lên thì được hàm cửu phẩm, lên đến 10.000 quan thì được hàm lục phẩm,
nghĩ là phải dùng lối đời trước bán quan để lấy tiền.
6. Việc Văn Học.
Vua
Dực Tông là một ông vua hay chữ nhất đời nhà Nguyễn, cho nên ngài trọng
sự nho học lắm. Ngài chăm về việc khoa giáp, sửa sang việc thi cử đặt
ra Nhã Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa, để chọn lấy người văn học ra làm quan.
Ngài
lại đặt Tập Hiền Viện và Khai Kinh Diên để ngài ngự ra cùng với các
quan bàn sách vở, làm thơ phú hoặc nói chuyện chính trị. Lại sai quan
soạn bộ Khâm Định Việt Sử , từ đời thượng cổ cho đến hết đời nhà Hậu Lê.
7. Việc Binh Chế.
Đời vua Dực Tông lắm giặc giã, nhà vua cần
đến việc võ, nên chỉ năm tân dậu (1861) là năm Tự Đức thứ 14 mới truyền
cho các tỉnh chọn lấy những người khỏe mạnh để làm lính võ sinh. Đến năm
ất sửu (1865) là Tự Đức thứ 18 lại mở ra khoa thi võ tiến sĩ.
Tuy
rằng lúc bấy giờ nước mình có lính võ sinh, có quan võ tiến sĩ, nhưng mà
thời đại đã khác đi rồi, người ta đánh nhau bằng súng đạn nạp hậu, bằng
đạn trái phá chứ không bằng gươm bằng giáo như trước nữa. Mà quân lính
của mình mỗi đội có 50 người thì chỉ có 5 người cầm súng điểu thương cũ,
phải châm ngòi mới bắn được, mà lại không luyện tập, cả năm 198 chỉ có
một lần tập bắn. Mỗi người chỉ được bắn có 6 phát đạn mà thôi, hễ ai bắn
quá số ấy thì phải bồi thường.
Quân lính như thế, binh khí như thế,
mà quan thì lại cho lính về phòng, mỗi đội chỉ để độ chừng 20 tên tại
ngũ mà thôi. Vậy nên đến khi có sự, không lấy gì mà chống giữ được.